Thứ Năm, 13 tháng 2, 2014

Mã Pì Lèng.- mù cang chải


ĐÈO MA PI LÈNG
Tập tin:Đèo Mã Pì Lèng.jpg



chúng ta hãy cùng tham quan 1 ngọn đèo cực hấp dẫn từ cái tên cho đến cảnh vật. Đó chính là đèo Mã Pì Lèng. TỈNH HÀ GIANG. Đèo Mã Pí Lèng (còn có âm đọc là Mã Pì Lèng, Mã Pỉ Lèng, Mả Pì Lèng) thuộc tỉnh Hà Giang là cung đường đèo hiểm trở dài khoảng 20 km [1][2] vượt đỉnh Mã Pí Lèng, một đỉnh núi có độ cao khoảng 1.200m thuộc Cao nguyên Đồng Văn, nằm trên con đường mang tên Đường Hạnh Phúc nối liền thành phố Hà Giang, Đồng Văn và thị trấn Mèo Vạc. Con đường dài khoảng 200 km này được hàng vạn thanh niên xung phong thuộc 16 dân tộc của 8 tỉnh miền Bắc Việt Nam làm trong 6 năm (1959-1965) với trên 2 triệu lượt ngày công lao động, trong đó riêng đoạn đèo vượt Mã Pí Lèng được các thanh niên trong đội cảm tử treo mình trên vách núi lấn từng centimet để làm trong 11 tháng.
Mã Pí Lèng được du khách gọi một cách không chính thống là một trong "tứ đại đỉnh đèo" tại vùng núi phía Bắc Việt Nam, bên cạnh Đèo Ô Quy Hồ, Đèo Khau PhạĐèo Pha Đin.. Ngày 16 tháng 11 năm 2009, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Việt Nam) đã quyết định xếp khu vực Mã Pí Lèng là di tích danh lam thắng cảnh quốc gia. Theo đó danh lam thắng cảnh Mã Pí Lèng bao gồm: đèo Mã Pí Lèng được coi là khu vực di sản đặc sắc về địa chất và cảnh quan; khu vực đỉnh đèo được đánh giá là một trong những điểm quan sát toàn cảnh vào loại đẹp nhất ở Việt Nam; hẻm vực sông Nho Quế là một trong những thung lũng kiến tạo độc nhất vô nhị ở Việt Nam.

Mã Pì Lèng, dịch ra nghĩa đen là sống mũi ngựa. Dịch ý thì đây là con đèo hiểm trở đến mức ngựa đi qua cũng phải bạt vía lạc hơi. Những năm cuối thập kỷ 50 của thế kỷ trước, Chính phủ đã làm con đường mang tên Hạnh Phúc nối Hà Giang với 2 huyện vùng cao là Mèo Vạc và Đồng Văn, 2 huyện cheo leo nơi cực bắc tổ quốc.
Để làm con đường này đã có hàng chục nghìn nhân công từ các tỉnh khắp miền Bắc. Riêng đoạn Mã Pì Lèng, do quá hiểm trở, nên khi đục từng cm đá để đặt nửa bàn chân vào tìm chỗ đứng, mỗi ngày có vài chục dân công được làm lễ truy điệu sống rồi treo mình trên dây thừng dòng từ cây cổ thụ xuống.
Con đường hình thành vòng vèo quanh lưng núi, nơi có vực đá bên sông Nho Quế, hẻm vực sâu và hùng vĩ nhất Đông Nam Á. Hẻm vực sông Nho Quế sâu khoảng 800 m, đứt gãy địa chất này được hình thành vào kỷ Kainozoi, cách đây khoảng 32 triệu năm đến 15 triệu năm theo cơ chế trượt bằng trái. Cách đây khoảng 5 triệu năm, đứt gãy hoạt động theo cơ chế trượt bằng phải, tạo nên hẻm vực hiện nay.
Hiện nay, Mã Pì Lèng là điểm đến không thể thiếu khi tham quan công viên địa chất Đồng Văn, được công nhận là công viên địa chất toàn cầu vào ngày 3/10/2010. Trên địa bàn, dân cư chủ yếu là người Mông trắng với bản sắc văn hóa độc đáo, hầu như nguyên sơ.







mù cang chảiHuyện Mù Cang Chải  thuộc Yên Bái. phía bắc giáp huyện Văn Bàn của tỉnh Lào Cai, phía nam giáp huyện Mường La của tỉnh Sơn La, phía tây giáp huyện Than Uyên của tỉnh Lai Châu, phía đông giáp huyện Văn Chấn cùng tỉnh. Huyện nằm dưới chân của dãy núi Hoàng Liên Sơn, ở độ cao 1.000 m so với mặt biển. Muốn đến được huyện Mù Cang Chải phải đi qua đèo Khau Phạ - là một trong tứ Đại Đèo của Tây Bắc.Châu Mụ Cang Chải (theo cách viết lúc đó) được thành lập ngày 18/10/1955, thuộc Khu tự trị Thái Mèo, gồm 13 xã: Hô Bơn, Khau Mang, Lao Chai, Pu Mun, Mô Đê, Kim Noi, Chè Cu Nha, La Pan Tay, Gieo Su Phinh, Pung Luông (từ châu Than Uyên), Cao Pha (từ châu Văn Chấn), Nậm Khát, Hiêu Trai (từ châu Mường La)
 Các thửa ruộng bậc thang ở ba xã La Pán Tẩn, Chế Cu Nha và Zế Xu Phình đã được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Việt Nam xếp hạng là danh thắng quốc gia.[3] Hiện tỉnh Yên Bái đã và đang tổ chức lễ hội ruộng bậc thang Mù Cang Chải để thu hút nhiều hơn sự quan tâm của du khách hướng về một miền đất còn rất nghèo nàn, hoang sơ nhưng lại rất giàu có về vẻ đẹp của thiên nhiên qua những thửa ruộng bậc thang mà vẻ đẹp của nó và tiềm năng còn đang bỏ ngỏ. Du khách có thể tham khảo chương trình hoặc tham gia chương trình Land tour của CÔNG TY CP DU LỊCH QUỐC TẾ YÊN BÁI đang mở tour khai thác nối tour với các điểm du lịch nổi tiếng khác trong tỉnh rất thành công.




Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

Văn học cho ai?

Thứ Tư, ngày 11 tháng 9 năm 2013

Văn học cho ai?

TS TRẦN HỒNG LƯU
(Trưởng môn Triết học, Khoa Lý luận Chính trị,
Đại học Kinh tế Đà Nẵng, 71 Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng)

NHÂN ĐỌC BÀI “VĂN HỌC CHO THIẾU NHI HAY VĂN HỌC VỀ THIẾU NHI” CỦA TÁC GIẢ HOÀI NAM TRÊN BÁO AN NINH THẾ GIỚI GIỮA THÁNG 7-2013, SỐ 66, TRANG 12, CHÚNG TÔI XIN CÓ VÀI Ý KIẾN TRAO ĐỔI THÊM VỚI TÁC GIẢ, NGÕ HẦU TÌM RA CÁCH HIỂU ĐÚNG HƠN KHI DÙNG CÁC THUẬT NGỮ NÀY.
Tuy không theo đuổi nghề Văn, song trước đây tôi cũng có học Văn, do thời cuộc biến đổi và những đam mê tuổi trẻ dẫn đến tôi theo đuổi nghề khác. Dù không theo nghiệp Văn, song có thể nói, những sự kiện lớn về Văn học nước nhà vẫn được tôi để tâm theo dõi. Qua đó tôi cũng được biết đến sơ bộ tên tuổi của tác giả Hoài Nam như một người “tuổi trẻ tài cao”, là người dẫn chương trình văn học trên VTV khá từ tốn và mực thước, không quá thừa lời hoặc thiếu lời. Đặc biệt trong các chuyên mục của An ninh thế giới liên quan đến phê bình - tiểu luận thường có bài của Hoài Nam. Những bài viết của tác giả thường đem lại cho người đọc một cái nhìn khá thiện cảm ở cái phông hiểu biết văn học của mình khá rộng, khá phong phú, đa dạng. Hơn thế, lối viết giản dị, dí dỏm và có phần pha lẫn hài hước khá sinh động cũng góp phần làm cho bài “luận” của tác giả bớt khô khan hơn khi phải đọc những bài viết mang tính “phê bình” như tâm thế thường gặp khi đọc những bài viết trong chuyên mục này. Dù rất quý mến tác giả mà mình yêu thích, song để góp phần hoàn thiện hơn cho tác giả, từ góc nhìn của người đọc chúng tôi cũng mạnh dạn góp thêm một vài ý kiến nhỏ thông qua đọc bài báo trên.
Trước hết, chúng tôi cũng đồng ý với tác giả là không nên đưa ra cụm từ văn học cho thiếu nhi. Vì từ cho dễ bị khuôn hẹp đối tượng ở đây chỉ là thiếu nhi, chứ không còn ai khác, còn vấn đề văn học đó cho hay thiếu nhi thì cần phải được hiểu một cách cặn kẽ, thấu đáo hơn, chúng ta sẽ bàn sau.
Bài thường thức mở đầu cho dân tập tễnh biết về Văn học là câu nói nổi tiếng của M. Gorki: Văn học là nhân học, điều này ai cũng biết. Nói gọn lại: Văn là người. Văn học bàn đến chuyện trên trời, dưới đất, con này, cây kia, cuối cùng cũng để nói đến con người. Như vậy, đã rõ, ở đây có thể nói lại rõ ràng là văn học phục vụ con người và trên hết là vì con người. Đây là con người nói chung, không phụ thuộc vào lứa tuổi, giới tính, chủng tộc, dân tộc, quốc gia nào hết. Điều đó cho thấy, không ít những tác phẩm chẳng đề là dành cho ai, lứa tuổi nào mà vẫn thu hút không ít các lứa tuổi cùng theo dõi, từ đứa trẻ con lẫn người lớn tuổi, từ người biết chữ lẫn người không biết chữ vẫn say mê tìm đọc hoặc tìm (nghe kể). Thậm chí tác phẩm đó không chỉ hấp dẫn thế hệ này mà cả nhiều thế hệ khác, bất chấp tính lịch đại của nó. Ngay cả trong môi trường thông tin đậm đặc được cả hệ thống thông tin đại chúng hùng hậu hiện nay được trợ giúp bởi internet người ta vẫn tìm đến nó để đọc, để nghe, để được cùng trải nghiệm với người đọc, người nghe, người xem và người bình khác để thấy được cái hay, cái mới của nó mà một mình thưởng thức chưa chắc đã thấy được các tầng nghĩa sâu xa của nó. Điều đó cho thấy, nếu người thưởng thức Văn học nói riêng và nghệ thuật nói chung, nếu có một phông tri thức tương đối, thì họ vẫn có thể biết phân tích, lọc bỏ, phân biệt đâu là Văn học đích thực, đâu là giả hiệu, để tránh chết khát Văn học trên một biển thông tin tưởng là Văn học nhưng chưa chắc phải là Văn học.
     Có thể có cuốn người này thích, người kia không thích, song theo chúng tôi những cuốn sách dưới đây dễ làm cho người ta theo dõi mà không hề giảm bớt say mê không kể lứa tuổi như: Tôn Ngộ Không, Tam quốc diễn nghĩa, Con đường đau khổ, Chiến tranh và hòa bình… Tuy nhiên cũng có những cuốn sách không hề dễ đọc và kén tuổi thì không hề hợp với mọi người, thậm chí nếu thiếu nhi tiếp cận quá sớm với những cuốn này có thể dẫn đến nguy hại cho tâm hồn trẻ thơ như là: Buồn nôn, Người xa lạ hay Trăm năm cô đơn... mà tác giả Hoài Nam kể tới trong bài viết trên. Chúng tôi không đồng ý với tác giả ở điểm này, bởi những tác phẩm khó đọc này, đòi hỏi trình độ rất cao nhất là dòng Văn học hiện sinh, làm sao thiếu nhi đủ sức, đủ trình độ để đọc được nếu không có một phông văn hóa tối thiểu? Ngay cả người lớn, nếu không có ít hiểu biết về triết học thì đọc những cuốn này cũng… chối vì không hiểu gì. Chính tôi bắt gặp trường hợp khi cuốn Trăm năm cô đơn được xuất bản, tôi tìm thấy nhiều cuốn được vất chỏng chơ hoặc bán rẻ ở các hiệu sách cũ vỉa hè ở Đà Nẵng (dù sách hầu như còn mới nguyên) nhưng chẳng ai động đến. Điều đó cho thấy, cuốn sách này tuy rất hay, của tác giả được giải Nô-ben, song không hề dễ đọc và không dễ đi vào tâm trí người đọc nói chung chứ không chỉ là thiếu nhi. Qua đó cũng không vì thế mà cho rằng dân trí người Đà Nẵng thấp. Đành rằng, khá nhiều thiếu nhi rất ham đọc, song nếu họ cố gắng hiểu những tác phẩm thuộc dòng văn học hiện sinh hay cuốn Thao thức của một tác giả Xô viết thì thật là bi kịch cho tuổi trẻ vì không hiểu gì hoặc thần kinh có vấn đề đáng lo. Vì thế, chúng tôi nghĩ tác giả hơi quá lời khi cho rằng: nhiều thế hệ bạn đọc Việt Nam khi còn ở tuổi thiếu nhi đã say mê với Tam quốc diễn nghĩa, Thủy hử…, thậm chí cả... Buồn nôn, Người xa lạ hay Trăm năm cô đơn họ cũng không từ. Vế trên có thể được nhiều người đồng ý nhưng vế dưới thì cần xem lại. Cần nhớ rằng người lớn có thể quay lại thời thiếu nhi (vì họ đã trải qua), nhưng thiếu nhi không thể vượt trước để thành người lớn.
     Thứ hai, luận điểm Văn học là nhân học, cho thấy, một tác phẩm hay khi được tác giả thể hiện thường không/hoặc không để ý đến đối tượng cụ thể của mình là ai, mà thể hiện được cảm hứng của nhà văn khi nắm bắt được đề tài thích hợp với hứng khởi của mình. Khi đó, tác giả có thể viết một mạch theo “chỉ dẫn” của say mê mà không phụ thuộc vào bất cứ điều kiện gì. Chính vì vậy mà những tác phẩm Văn học lớn không chỉ nằm lòng đối với cả tuổi trẻ và cả tuổi già, in vào tâm khảm họ suốt cả cuộc đời. Tôi cho rằng đối với trẻ em, nhất là khi đã biết đọc, lần đầu tiên được tiếp xúc với Văn học, với tác phẩm nào, có ý nghĩa rất lớn đến sự phát triển tâm hồn về sau của người đó, đến sự yêu ghét đối với môn Văn sau này. Riêng tôi, khi mới vào lớp 3, lớp 4, không hiểu từ đâu tôi được tiếp xúc lẻ tẻ với một vài tập Tam quốc diễn nghĩa, sau đó là biết đến Phan Tứ qua tác phẩm Mẫn và Tôi. Vẻn vẹn chỉ hai tác phẩm (không đủ tập như Tam quốc diễn nghĩa Mẫn và Tôi), đã đủ sức đưa tôi đến với sự say mê Văn học. Và cho mãi đến khi học lớp 7 (hệ 10 năm của nền giáo dục nước ta lúc đó), ước mơ lớn nhất của tôi lúc đó là làm sao đủ tiền để mua trọn bộ 8 tập Tam quốc diễn nghĩa của Nhà xuất bản Văn hóa. (Cũng xin tiết lộ rằng ước mơ cháy bỏng đó phải mãi mấy năm sau khi vào dạy đại học mới biến thành hiện thực). Tuy nhiên, đặt giả thuyết, nếu ngay ban đầu mà tôi được tiếp xúc với Buồn nôn, Người xa lạ hay Trăm năm cô đơn... thì có thể dẫn tâm hồn tôi đi đến thứ Văn học gì thì tôi không hình dung ra. (May cho tôi là những năm đó các tác phẩm đó chưa thể được in và phát hành). Do đó, không phải sự tiếp xúc đầu tiên nào cũng có ý nghĩa tích cực với tâm thế về sau mà quan trọng là sự tiếp xúc văn học đầu tiên như thế nào với tác phẩm nào, có cơ may hay không. Vai trò của lần tiếp cận Văn học đầu tiên vì thế có ý nghĩa rất quan trọng. Chẳng hạn lần tiếp xúc đầu tiên với Văn học nước ngoài là Văn học Nga đã để lại ấn tượng tốt của tôi đối với một số tác giả, một số thuật ngữ khó phai mờ trong ký ức tôi. Hình như, nếu tôi nhớ không nhầm thì, tác phẩm Văn học Xô viết đầu tiên mà tôi tiếp xúc là Tiếng nhạc trên sân ga, sau đó mới được tiếp cận đến Chiến tranh và hòa bình, Sông Đông êm đềm, Thao thức, Mùa hè rớt… Các thuật ngữ: hoa anh đào, phúc bồn tử, tử đinh hương, ấm xa-mô-va, mu-gich, đêm trắng, sông Vônga… đã in lại trong ký ức tôi từ đó và thật khó quên.
     Văn học là nhân học và Văn học, hơn thế, còn là sự nhân hóa các sự vật hiện tượng của thế giới. Song sự nhân hóa đó ra sao, ở mức độ nào thì cuối cùng để nói đến và chỉ/vì phục vụ cho con người. Thể hiện khi Trương Chính, sưu tầm và biên soạn Trí khôn của ta đây, không chỉ cốt nói chuyện con trâu và con cọp. Tô Hoài khi viết Dế mèn phiêu lưu ký không chỉ đơn thuần để nói đến chuyện phiêu lưu của chú dế.
Tôi đồng ý với tác giả là những tác phẩm viết về trẻ em, nhiều khi là do người lớn tuổi ghi lại những ký ức của mình về quãng đời đáng nhớ đã qua và không nhất thiết viết cho thiếu nhi nhưng có giá trị rất lớn với thiếu nhi. Chẳng hạn cuốn Mùa hè năm Petrus của Lê Văn Nghĩa hay Cho xin một vé đi tuổi thơ của Nguyễn Nhật Ánh. Tuy vậy không vì thế mà đồng nhất, mọi thiếu nhi đều có thể không từ (từ của tác giả) bất cứ tác phẩm nào như đã phân tích trên.
Theo tôi, vấn đề Văn học cho ai, vì ai, nếu xem xét một cách tổng thể qua sự phân tích sơ bộ nói trên thì thực ra đã có câu trả lời khá rõ. Văn học vì con người, không loại trừ một đối tượng nào cả, nói chuyện cây cỏ, con vật, người ngoài hành tinh hay cả ma quỷ, thiên đàng, địa ngục cuối cùng cũng quy về nói con người. Nói chuyện xa hay gần cũng là cuối cùng để bàn đến con người, chủ nhân của thế giới này. Điều này cho thấy tính phổ quát của Văn học mà các môn khoa học khác tuy cũng nói về hình tượng con người nhưng không môn nào có thể thay thế được Văn học. Qua đó cũng cho thấy được tính tương đối của sự phân chia đối tượng khi xem xét, chứ không nên cố định, bắt đối tượng khuôn vào một hình mẫu nghiêm ngặt sẽ giảm đi tính sinh động của nó.
Thứ ba, về thuật ngữ, Văn học cho thiếu nhi hay Văn học thiếu nhi. Nếu xét ở đối tượng cụ thể này, trong phạm vi cụ thể này, tôi cũng đồng ý với tác giả Hoài Nam là nên dùng thuật ngữ Văn học thiếu nhi thì đối tượng, phạm vi của nó rõ hơn, rộng hơn, bao quát hơn là Văn học cho thiếu nhi. Như thế cũng ít gây ra sự tranh cãi hơn. Cũng nên nhận thấy rằng, các trại sáng tác theo chủ đề: cho cái này, cho cái kia hay vì cái này, vì cái kia trong các lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật theo kiểu chiến dịch hay phong trào thường ít đem lại những tác phẩm hay. Như đã biết sáng tạo trong Văn học, cũng như nghệ thuật thường từ những cảm hứng, thậm chí từ ngẫu hứng ngẫu nhiên của chủ thể thì mới sinh động. Song chúng ta cũng từng biết, có những nhà văn chỉ suốt đời nổi tiếng với một tác phẩm, sau đó chờ mãi không thấy nguồn cảm hứng mới để sáng tác nữa đành gác bút văn trường. Chính vì thế, dù biết rằng việc sáng tác Văn học theo kiểu lập trại văn hay chiến dịch tuy chưa hiệu quả cho lắm song ít ra qua các trại các phong trào đó cũng là gợi ý cho các nhà văn về ý tưởng và cũng có thể tìm ra một số tác phẩm khá đáp ứng được chủ đề đặt ra. Vì thế, khi đọc các bài phỏng vấn của các nhà văn, nhà báo lớn thuộc dạng cây đa, cây đề của làng văn hóa Việt Nam, chúng ta vẫn bắt gặp trường hợp, chỉ khi tòa soạn hay nhà xuất bản đã đặt hàng gọi đến thúc thì họ mới cầm bút để tập trung sáng tác là gì? Chính vì thế, vẫn nên tổ chức các cuộc thi hay ý tưởng về những chủ đề định sẵn để các nhà văn có đất để dụng võ, ít ra là nguồn kinh phí và thời gian để họ tập trung suy ngẫm và sáng tác và sáng tạo nhưng cũng không nên khuôn họ trong một phạm vi quá hẹp, dễ dẫn đến tình trạng... gà không đẻ được trứng vàng.
Văn học cho ai, vì thiếu nhi hay vì ai, hoặc giả khi nhà xuất bản nào đó khi đưa sách theo chuyên mục vì đối tượng nào cũng rất khó, do tính tương đối nói trên khi xem xét, phân chia. Tuy nhiên, dù khó phân chia, vẫn cần chú ý rằng: Đối tượng quyết định phương pháp - đó là nguyên tắc. Khi đã xác định đối tượng Văn học vì thiếu nhi, dù ít hay nhiều cũng tác động đến cách viết, cách tiếp cận đối tượng một cách mềm dẻo hơn đối với người viết, chứ không nên cực đoan như Alain Robbe Grillet, ông trùm “tiểu thuyết mới” được tác giả viện dẫn: “Nhà văn là kẻ suy đồi nếu khi viết mà hắn còn để ý tới độc giả”. Cho dù tác giả Hoài Nam có biện luận: bỏ qua sự cực đoan vốn có của nhà tiểu thuyết vốn có cá tính mạnh nhất trong Văn học Pháp hiện đại, phán quyết này nói trúng cái cần phải thuộc về bản chất của sáng tạo nhà văn, đó là sự đốt cháy hết mình của chủ thể trong ngọn lửa mà chính tay anh ta nhóm lên, từ ý chí và niềm say mê của cá nhân. Điểm này chúng tôi cũng không đồng ý với tác giả Hoài Nam, vì Văn học phải xuất phát từ cuộc sống để trở lại phục vụ cuộc sống. Trước khi anh bước vào tháp ngà để tập trung cho sáng tạo thì anh phải lấy chất liệu đó từ cuộc sống chứ không phải ở đâu khác. Chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi. Nếu không, anh sáng tác cho ai? Ai mua tác phẩm của anh? Hay anh mãi chỉ bơi trong tháp ngà của “nghệ thuật vị nghệ thuật”? Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh? Câu hỏi này chắc cũng đã có câu trả lời, chúng tôi không xới lại.
 Trên đây là những góp ý nhỏ để mong tác giả của chúng ta ngày càng hoàn thiện hơn.