Xin
hãy làm quen với Immanuel Kant (1724-1804). Tư tưởng giáo dục của ông -
được môn đệ tập hợp lại từ các khóa giảng về giáo dục học mà chúng ta
sẽ tìm hiểu - không thể so sánh với tư tưởng triết học của ông về bề
rộng lẫn chiều sâu. Lý tưởng giáo dục hiện đại kết tinh trong ý tưởng về
sự tự trị của mỗi cá nhân sẽ không thể hiểu được, nếu không được đặt
vào trong toàn cảnh triết học của ông. Vì thế, ta không thể không nhắc
qua hành trình tư tưởng khi giới thiệu đôi nét về cuộc đời.
CHÀNG ĐỘC THÂN "KHÓ TÍNH"?
Kant
sinh năm 1724 tại Königberg, thành phố miền Đông Phổ, nay là
Kaliningrad thuộc Nga. Thành phố này hầu như bị tàn phá hoàn toàn vào
cuối thế chiến 2, kể cả ngôi nhà nơi Kant sinh ra. Nay chỉ còn Bảo tàng
Kant trong đại học và ngôi mộ nổi tiếng của ông đàng sau giáo đường đổ
nát như là di tích tưởng niệm. Những trang tiểu sử về ông thường cho ta
hình ảnh về một cuộc sống học giả khá đơn điệu, buồn tẻ, thiếu vắng
những biến cố cá nhân:
- Xuất
thân gia đình nghèo, nhưng may mắn được hưởng nền giáo dục chu đáo. Năm
16 tuổi, vào đại học, sau đó làm gia sư kèm trẻ. Tốt nghiệp, được làm
giảng viên không lương, phải độ nhật nhờ chân phó thủ thư thư viện hoàng
gia. Mãi đến năm 46 tuổi mới ổn định cuộc sống nhờ được bổ nhiệm làm
giáo sư thực thụ. Từ đó, ông chỉ giảng dạy, viết sách (có lúc làm viện
trưởng đại học) và mất năm 1804 với câu nói an nhiên lúc lâm chung giống
như Nguyễn Du của chúng ta: "Thế là tốt!".
-
Sinh ra, ăn học, làm thầy giáo và qua đời tại thành phố quê hương,
không đến nơi nào khác, dù có nhiều lời mời. Sinh hoạt trọn đời theo một
"thời khóa biểu" nghiêm ngặt của đời sống độc thân: dậy thật sớm, giảng
bài cũng rất sớm để có thời gian viết sách. Đúng 4 giờ chiều, đi dạo,
một mình, trên cùng một con đường. Dân thành phố cứ chờ ông ra khỏi nhà
đi dạo để lên dây cót đồng hồ! (Chỉ hai lần ông trễ giờ: nhận được quyển
Émile của Rousseau và nghe tin Cách mạng Pháp bùng nổ).
Hình
ảnh khá buồn tẻ và nghiêm nghị này thật ra chỉ đúng một nửa! Kant suốt
đời không ra khỏi thành phố quê hương và từ chối ghế giáo sư ở nhiều đại
học khác còn có lý do khách quan: thành phố hẻo lánh ngày nay, vào thời
Kant, không chỉ là kinh đô của Đông Phổ mà còn là trung tâm văn hóa và
trí thức của khu vực nói tiếng Đức, lớn hơn cả Berlin. Quan hệ của Kant
với thành phố phong nhã này còn là một quan hệ "thẩm mỹ", vì ta không
quên rằng, bên cạnh một triết gia của lý tính, Kant còn là triết gia về
sở thích, về trí tưởng tượng và sự lịch thiệp của đô thị. Điều này thể
hiện ngay trong phong cách của ông, trái với hình dung thông thường: ăn
mặc sành điệu, thông thạo các môn giải trí, vui vẻ và là khách mời được
yêu chuộng trong các "phòng khách văn chương" danh giá nhất.
Ông
cố ý chỉ dành buổi sáng cho công việc chữ nghĩa (giảng dạy và viết
sách), còn cả buổi chiều để giao du thoải mái với bạn bè: buổi ăn trưa
kéo dài, dịp để thưởng thức hương vị của thức ăn và rượu ngon, đàm đạo
và cập nhật thông tin trên mọi lĩnh vực. Buổi tối đọc sách văn chương và
du ký. Giai thoại cho biết ông am tường đến từng chi tiết những cây cầu
trên dòng sông Seine hơn cả dân Paris!
Nhưng, chính đời sống tinh thần phong phú mới thật sự làm nên tên tuổi bất hủ của Kant.
Năm
1783, ông viết: "Chính David Hume [triết gia Anh] đã đánh thức tôi khỏi
giấc ngủ giáo điều". Vì Hume là nhà hoài nghi, và, hoài nghi là khởi
điểm của mọi sự phê phán. Ngoài Hume, còn có J. J. Rousseau và Pierre
Bayles. Sự "thức tỉnh" của Kant, dưới ảnh hưởng của ba tác giả trên, bắt
đầu từ 1760 và đã chuyển sự quan tâm của ông từ lĩnh vực khoa học tự
nhiên (Kant vốn là nhà thiên văn học và toán học có tiếng) sang triết
học và việc phê phán năng lực nhận thức nói chung. Sự hoài nghi không tự
dưng mà có, nó cũng cần một cơ hội bên ngoài, thường là nỗi thất vọng
lớn hay một thảm họa. Ngày 1.11.1755, một trận động đất đã tàn phá thành
phố Lissabon (Bồ đào nha), một trong những trung tâm thương mãi lớn của
châu Âu thời bấy giờ. 30.000 người mất mạng. Giống như nhiều thảm họa
"phi lý" về sau, trận động đất Lissabon đánh một đòn mạnh vào phong trào
Khai minh và lòng tự tin của châu Âu thế kỷ 18. Người ta gọi đó là "cái
chết của lòng lạc quan". Từ đó nảy sinh một cách tiếp cận khác, một
"diễn ngôn" mới: từ nay cần nghiên cứu thảm họa và nguy cơ: thay vì chỉ
bàn về tội lỗi và trừng phạt, nghiên cứu về địa chất và địa tầng thay vì
chỉ nói về cơn đại hồng thủy thần thoại. Nói cách khác, khai minh cần
đi vào chiều sâu với tư duy và tri thức khoa học vững vàng.
TINH THẦN SOCRATES
Đối
thủ chính yếu của Kant là cả hai phía cực đoan: thuyết duy lý giáo điều
(tưởng rằng có thể dùng lý trí để giải thích mọi việc, kể cả cái siêu
nhiên, vô hình) và thuyết hoài nghi giáo điều (không còn tin tưởng vào
năng lực giải thích nào hết).
Kant
cho rằng mục tiêu và phương pháp của thuyết hoài nghi giáo điều không
thể bẻ gãy được thuyết duy lý giáo điều! Trái lại, theo ông, vấn đề là
làm thế nào để ngay trong sự hoài nghi triệt để, vẫn có thể xây dựng
được tri thức vững chắc. Nghi ngờ cách lý giải giáo điều của thần học,
vẫn có chỗ dành cho đức tin; nghi ngờ sự "toàn tri" của giáo hội, vẫn có
thể bàn về luân lý, đạo đức. Ở phương diện này, có thể so sánh Kant với
Socrates cổ đại, một sự tương đồng mang ý nghĩa giáo dục và sư phạm học
sâu sắc. Thời Socrates, đã từng có những nhà biện sĩ tài ba phá đổ tất
cả, và Socrates là người đã nỗ lực đi tìm tri thức có giá trị phổ quát
và cả những quy phạm không kém phổ quát cho hành động đạo đức. Một tình
thế mới kiểu Socrates đang đặt ra cho Kant: vừa phải phá hủy, vừa phải
cứu vãn để đưa khoa học tiến bước vững chắc lên một cấp độ mới mẻ.
Kant
thừa biết đây là công cuộc suy tưởng hết sức nặng nề và phức tạp. Âm
thầm ôm ấp mối hoài nghi từ năm 36 tuổi (1760), mãi hai mươi năm sau
(1781), ông mới giải đáp được câu hỏi đầu tiên: "Tôi có thể biết gì?"
bằng kiệt tác "Phê phán lý tính thuần túy". Và rồi còn ba câu hỏi lớn
khác nữa cần được lần lượt giải đáp: "Tôi phải làm gì?"; "Tôi được phép
hy vọng gì?", và, sau cùng quy về câu hỏi: "Con người là gì?".
Bốn
câu hỏi nổi tiếng ấy của Kant sẽ là cái giá đỡ và nguồn dưỡng chất cho
tư tưởng giáo dục và phương pháp giáo dục "khai minh" đúng theo nghĩa
đen của từ này.
(Nguồn: Người Đô Thị, Bộ mới, số 16, 15.05.2014)