TƯ TƯỞNG VỀ THỜI CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TS TRẦN HỒNG LƯU*
Chủ
tịch Hồ Chí Minh, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh
tụ kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam,
một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc
tế và phong trào giải phóng dân tộc. Con người, cuộc đời và sự nghiệp Cách mạng
của Người là tấm gương cho toàn Đảng, toàn dân ta suốt đời học tập và noi theo:
một di sản vĩ đại, những giá trị nhân văn cao cả, đó là tấm gương ngời sáng về
phẩm chất đạo đức, tiêu biểu cho những gì cao đẹp nhất trong tâm hồn, ý chí,
nhân cách của dân tộc và của loài người, xứng đáng là danh nhân văn hoá của thế
giới. Trong di sản để lại của Người còn có những giá trị khác không kém phần
đặc sắc, một trong số đó là tư tưởng về
thời, nắm thời, dự đoán thời và vận dụng thời để tạo ra thắng lợi cho sự nghiệp
cách mạng.
Tiếp
bước các tiền bối, Hồ Chí Minh lãnh tụ tài ba của dân tộc đã vận dụng linh hoạt
lý luận về thời thế vào lịch sử dân tộc ta. Với nhãn quan sáng suốt của một
thiên tài, khi xem xét toàn cảnh lịch sử nhân loại, Người đã sớm nhận thấy,
lịch sử nhân loại dù đã được Mác bổ sung bằng một số lý luận sơ lược về phương
thức sản xuất Châu Á thì vẫn chưa đầy đủ, mà phải được cung cấp nhiều hơn những
cứ liệu cụ thể từ phương Đông, trong đó có Việt Nam. Ngay trong thời kỳ nhân
dân Đông Dương còn chìm đắm trong vòng nô lệ, trong thế “châu chấu đá xe”, Hồ
Chí Minh vẫn nhìn thấy những tiền đề cho sự bùng phát của sự nảy nở cách mạng bằng
nhận định xác đáng. Với niềm tin tưởng vào truyền thống anh hùng của dân tộc,
dù trong hoàn cảnh khó khăn nhất Người
vẫn khẳng định rõ: “Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể
làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng của người
Đông Dương. Luồng gió từ nước Nga thợ thuyền, từ Trung Quốc cách mạng hoặc từ
Ấn Độ chiến đấu đang thổi đến giải độc
cho người Đông Dương” và hơn thế, Người còn cảnh báo trước cho các thế lực thực
dân và đế quốc: “Đằng sau sự phục tùng
tiêu cực, người Đông Dương dấu một cái gì đó sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng
nổ ghê gớm khi thời cơ đến”1.
Có
thể nói, do nhận thức được tầm quan trọng của thời cơ, Ðảng ta,
đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, ngay từ những năm đầu
thập niên 20 (thế kỷ 20), đã sớm đưa ra quan điểm về thời cơ cách mạng ở Ðông Dương
đang đến gần và chỉ ra nhiệm vụ quan trọng cho lực lượng lãnh đạo phải biết nắm
lấy để “… khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú
có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến”2.
Hơn thế nữa, với nhiệt huyết cháy bỏng của người yêu
chuộng công lý, Người còn cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân bị áp bức bằng
khẳng định đanh thép: “Không: người Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn
sống, sống mãi mãi”. Người còn chỉ ra nhiệm vụ của “bộ phận ưu tú” ở Đông Dương
là phải: “…Thúc đẩy cho thời cơ mau đến” vì: “Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản
đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ phải làm cái việc là gieo hạt giống
của công cuộc giải phóng nữa thôi”3.
Là người Mác
xít chân chính, giàu trí tuệ, nung nấu lý tưởng giải phóng đất nước, Hồ Chí
Minh hiểu con đường phải đi, những việc phải làm và hướng nỗ lực chuẩn bị vào
đó để giành quyền chủ động bùng nổ cách mạng khi có thời cơ: ngày 19/9/1924, Hồ
Chí Minh trả lời họa sĩ Thụy Điển, Erich Giôhanxơn: con đường giải phóng Việt
Nam là khởi nghĩa vũ trang trong cả nước; phải tổ chức càng nhiều càng tốt
những nhóm vũ trang của người nông dân và công nhân tại Việt Nam. Đó là những tế bào có thể hợp
thành hạt nhân của cuộc khởi nghĩa. Năm 1927, Người viết tác phẩm “Đường Kách
Mệnh”. Đó là những nét lớn làm cơ sở cho cương lĩnh của Đảng ta sau này.
Những nỗ lực chủ quan trong hoạt động của Người để chuẩn bị cho việc nắm bắt thời và vận dụng
kịp thời được thể hiện như một quá trình lâu dài bền bỉ dưới đây. Tháng
6/1925, Hồ Chí Minh sáng lập Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên, chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày
2/10/1929, Người viết bài Chủ nghĩa tư
bản đế quốc Pháp ở Đông Dương, vạch trần những thủ đoạn bóc lột, bắt phu,
bắt lính của thực dân Pháp ở Đông Dương, chỉ cho nhân dân ta bộ mặt và bản chất
thật của chúng. Từ ngày 3-7/2/1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức
cộng sản ở Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua “chính cương
vắn tắt”, “sách lược vắn tắt” và “điều lệ vắn tắt” của Đảng do Người khởi thảo.
Từ đây, cách mạng Việt Nam
có bộ tham mưu tối cao thống nhất lãnh đạo, vạch ra lý luận đường lối - đó là
điều kiện tiên quyết để cách mạng thành công. Sau Hội nghị Trung ương I (tháng
10/1930), Hồ Chí Minh viết: “Để chống lại
đàn áp cần phải chuẩn bị thật chu đáo và lãnh đạo có kế hoạch mọi cuộc đấu
tranh, phải phát triển và huấn luyện đội tự vệ nông dân”, “cần làm cho nông dân
nhận thức rõ lực lượng và vai trò của mình”4.
Đầu năm 1941,
Người về nước chỉ đạo lập các Hội cứu quốc tại căn cứ địa Cao Bằng và chỉ thị
phải tuyên truyền vận động quần chúng, có như vậy cách mạng mới thành công.
Cũng năm này, với tài tiên đoán xuất chúng Người
đã dự báo đến năm 1945 cách mạng Việt Nam sẽ thành công.
Là
người nắm vững học thuyết Mác – Lênin, lại am hiểu sâu sắc trước tác
của những nhà chính trị, quân sự tầm
cỡ thế giới ở phương Đông (Khổng Tử, Tôn Tử,
Ngô Khởi, Gia Cát Lượng…), Hồ Chí Minh thấy rất rõ ý nghĩa to lớn của vấn
đề thời cơ. Cách mạng Việt Nam luôn phải đối mặt với các kẻ thù lớn, hung bạo
(Nhật, Pháp), vấn đề thời cơ và nắm bắt thời cơ là mối quan tâm đặc biệt của Người, Người tìm
mọi biện pháp nắm bắt tình hình, phân tích, kết luận chính xác, đánh giá đúng
tương quan so sánh lực lượng để phát động tổng khởi nghĩa đúng lúc, bảo đảm
chắc thắng, ít tổn thất, thương vong.
Trong quá trình vận động, chuẩn bị cách mạng, Hồ Chí
Minh còn thường xuyên uốn nắn những chủ trương, hành vi manh động, không hợp
thời. Tháng 11/1940 được tin Nam Kỳ khởi nghĩa căn cứ vào tình hình cụ thể lúc
đó, Người đã rút ra nhận định hết sức chính xác: “Tình hình… có lợi cho ta,
nhưng thời cơ chưa đến, chưa thể khởi
nghĩa được. Song nay đã nổ ra rồi thì cần tổ chức rút lui cho khéo để duy trì
phong trào”5.
Tháng 6 năm
1940, tại Côn Minh sau khi nghe tin Paris bị
quân Đức chiếm, Nguyễn Ái Quốc đã phân tích tình hình thế giới và trong nước và
đưa ra nhận định: “việc Pháp mất nước là một cơ hội rất lớn thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước
ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc
này là có tội với cách mạng”6.
Năm 1940,
phát-xít Ðức tiến công nước Pháp, Pa-ris đã thất thủ rơi vào tay quân Ðức,
còn ở Việt Nam, Nhật nổ súng đánh chiếm Lạng Sơn, hai đế quốc Nhật - Pháp tranh
nhau miếng mồi Ðông Dương. Phân tích về diễn biến cuộc chiến tranh giữa phe
phát-xít và Ðồng minh, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khẳng định, thắng lợi cuối cùng
sẽ thuộc về phe dân chủ và nhận định thời cơ giải phóng dân tộc đang đến rất
gần, tình thế cách mạng sắp xuất hiện:
Ấy là dịp tốt cho ta
Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông.
Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông.
Theo dõi sát sao tình hình cụ thể của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai
đang diễn ra quyết liệt, lôi cuốn nhiều nước tham gia, Hồ Chí Minh coi đó là
dịp tốt cho cách mạng Việt Nam có thể tận dụng. Trong bài viết Năm mới, công
việc mới (tháng 1/ 1942), Hồ Chí Minh đã dự đoán: “Nga nhất định thắng Đức,
Anh- Mỹ sẽ được, Nhật Bản sẽ thua”7
và đây là “một dịp tốt cho dân tộc ta khởi nghĩa đánh đuổi Pháp- Nhật, làm cho Tổ quốc ta được
độc lập, tự do”8.
Hồ Chí Minh đã có sự chuẩn bị
rất kỹ lưỡng về nhân tố chủ quan để nắm bắt thời thế, để khi thế cuộc có biến
động, sẽ linh hoạt nắm bắt lấy cơ hội đó. Thể hiện, năm 1941 trong bài Thế giới đại chiến và phận sự dân ta,
Người đã phân tích cặn kẽ diễn biến của chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ ra
mối liên hệ biện chứng giữa công cuộc giành độc lập của dân tộc ta với kết quả
cuộc chiến tranh thế giới.. Hơn thế, Người còn chỉ rõ, Việt Nam cần phải chủ
động nắm bắt thời cơ bằng cách chuẩn bị đầy đủ tinh thần và lực lượng cách mạng
để nhân cơ hội này “mà khôi phục lại Tổ
quốc, mà làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập”9. Theo mạch dự đoán: Việt Nam độc lập năm 1945, đến tháng 10 năm 1944, sau
khi từ Trung Quốc về Cao Bằng, trong Thư
gửi đồng bào toàn quốc, sau khi chỉ ra tình hình “phe xâm lược gần đến ngày
bị tiêu diệt. Các Đồng minh quốc sắp tranh được thắng lợi cuối cùng”, Người đự
báo, cơ hội cho dân tộc ta giải phóng “chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa.
Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh”10. Có thế thấy, đến thời điểm này, khi đã nắm
bắt được sự thay đổi về điều kiện khách quan và thời cơ cách mạng, dự báo của
Hồ Chí Minh về Việt Nam độc lập năm 1945 đã diễn ra nhanh chóng từ một năm đến một năm rưỡi.
Ngày 15/8/1945, Người phát biểu ở Hội
nghị toàn quốc của Đảng: chỉ rõ rằng nếu tích cực thì nắm được thời cơ,
không tích cực thì thời cơ không chờ mình. Theo Người, thời cơ Tổng khởi nghĩa
chỉ tồn tại trong thời đoạn từ Nhật đầu hàng Đồng minh (13/8/1945) đến trước
khi quân Đồng minh vào nước ta giải giáp quân Nhật (28/8/1945). Thực tiễn cuộc
cách mạng tháng Tám 1945 của nhân dân ta đã diễn ra đúng thời điểm Nga thắng,
Đức, Nhật bại. Nhờ giành được độc lập, tự do trong đúng thời điểm thuận lợi đó
mà chúng ta đã lập ra chính quyền của nhân dân trước khi quân Đồng minh vào
giải giáp quân Nhật. Với tư thế chủ động của một chính thể độc lập có chủ
quyền, Việt Nam đã chủ động ứng phó trước các âm mưu đen tối của các thế lực đế
quốc và phản động.
Thời cơ cách mạng là cơ hội thuận lợi nhất, tốt nhất
và chín muồi nhất chỉ trong một khoảng thời gian nhất định có thể đưa đến sự
thắng lợi và bùng nổ cách mạng. Đó là khi tình thế cách mạng đặt ra vấn đề phải
chuyển chính quyền từ tay giai cấp lỗi thời, lạc hậu, phản dộng sang tay giai
cấp cách mạng tân tiên và tiến bộ, thực hiện bước ngoặt về chất trong cuộc cách
mạng.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, một khi đã phán đoán đúng
thời cơ lịch sử để phát động quần chúng nhân dân nổi dậy giành thắng lợi quyết
định là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng. Thời cơ có thể do hoàn cảnh bên
ngoài đưa lại và mang nhiều yếu tố bất ngờ nên nếu chủ thể cách mạng không sẵn
sàng chuẩn bị các nhân tố chủ quan để chủ động tiếp nhận thì thời cơ sẽ trôi
qua nhanh chóng, là có tội với dân tộc. Lịch sử đã minh chứng hùng hồn rằng,
cũng có thời cơ thuận lợi như nhau khi phe phát xít đầu hàng đồng minh trong
cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai nhưng chỉ có một số nước như Việt Nam
biết chủ động nắm lấy và kết hợp với các nhân tố chủ quan từ bên trong và giành
được chính quyền nhanh chóng và ít tốn xương máu nhất.
Việc nắm bắt được thời cơ chính là sự kết hợp
nhuần nhuyễn yếu tố chủ quan và điều kiện khách quan của lịch sử. Trên tinh
thần đó, Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ 8 (5-1941) đánh giá, tình hình thế giới, tình
hình trong nước sẽ có những biến chuyển theo chiều hướng Liên
Xô và các nước Ðồng minh sẽ chiến thắng chủ nghĩa phát-xít,
chính quyền của phát-xít Nhật lung lay, đổ nát; nhân dân ta bị bọn thực dân,
phát-xít xô đẩy vào thảm họa diệt vong, sẽ bước vào đường khởi nghĩa vũ trang
và giành thắng lợi bằng tổng khởi nghĩa. Thời cơ cướp chính quyền đang đến
Người cùng các đồng chí của mình ráo riết chuẩn bị lực lượng. Hội nghị xác định
nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ
cấp thiết của cách mạng Đông Dương: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận
của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia dân tộc. Trong lúc
này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập
tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể Quốc gia dân tộc chịu mãi
kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại
được”11.
Trong hội
nghị này, Người cũng đã sớm dự báo:
“nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ
nghĩa, thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ
nghĩa, do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”. Đó là những nhận định sắc sảo
và chính xác của Hồ Chí Minh về thời cuộc lúc bấy giờ và từ những nhận định đó
Người đã có những chỉ đạo cách mạng kịp thời chớp thời cơ, nhanh chóng đưa cánh mạng đi đến thắng lợi.
Theo Hồ Chí Minh: “Trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng
căn cứ vào tình hình trong nước và diễn biến trên thế giới để đề ra những khẩu
hiệu, mục đích và kế hoạch đấu tranh. Đảng quy định ở giai đoạn nào thì phải
dựa vào lực lượng nào, cô lập và phân hoá lực lượng nào để tiêu diệt kẻ thù của
giai cấp, của nhân dân”12.
Tháng
3/1945 sau khi Nhật đảo chính Pháp, Hồ Chí Minh nhắc nhở: Chuẩn bị tổng khởi
nghĩa lúc này cũng chính là sẵn sàng chiến đấu chống thực dân Pháp xâm lược. Ngay
cả khi mệt sốt cao nằm mê sảng trên lán giữa rừng, Người vẫn nghĩ đến thời cơ
tổng khởi nghĩa, giành độc lập cho dân tộc. Bây giờ Nhật đảo chính Pháp đã được
một thời gian, sau chỉ thị của Trung ương Đảng: Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta, Bác nói với Đại tướng Võ Nguyên Giáp “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh
tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được
độc lập”13.
Ngày 15/8/1945, Người phát biểu ở Hội nghị toàn quốc của Đảng: chỉ rõ rằng
nếu tích cực thì nắm được thời cơ, không tích cực thì thời cơ không chờ mình. Theo Người, thời cơ Tổng khởi nghĩa
chỉ tồn tại trong thời đoạn từ Nhật đầu hàng Đồng minh (13/8/1945) đến trước
khi quân Đồng minh vào nước ta giải giáp quân Nhật (28/8/1945). Chính vì biết
chủ động chuẩn bị, nắm được thời cơ và hành động đúng thời cơ mà chỉ với năm
ngàn đảng viên, Đảng Cộng sản Đông Dương đã lãnh đạo Tổng khởi nghĩa thành công
trong cả nước. Đó là sự kiện thần kỳ hiếm có trong lịch sử nhân loại. Cùng một
thời cơ như nhau khi phe phát xít đầu hàng đồng minh nhưng rất ít nước ở châu Á
biết nắm bắt được cơ hội ngàn vàng đó để kết hợp với nhân tố chủ quan từ bên
trong để phát động quần chúng giành chính quyền. Điều đó một lần nữa khẳng định
tài nghệ của Đảng ta trong việc nắm bắt thời cơ nhanh chóng giành thắng lợi cho
cách mạng. Một Đảng mới chỉ 15 tuổi đã thông minh, dũng cảm, kiên định tích lũy
lực lượng để chuẩn bị chủ động chờ đón nắm bắt thời cơ và khi thời cơ đến đã
linh hoạt, nắm bắt lấy để đem lại độc lập, tự do và chủ quyền cho dân tộc thoát
khỏi ác “một cổ hai tròng”. Qua đó cũng thể hiện tài tiên tri, dự báo về khả
năng thắng lợi của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới cũng như các xu thế
lịch sử lớn được Hồ Chí Minh viết trong “Lịch sử nước ta” từ cuối năm 1941 và
sau đó được Việt Minh tuyên truyền Bộ xuất bản vào tháng 2 năm 1942. Nguyên văn
dự đoán của Người là “Việt Nam
độc lập năm 1945”14.
Thành công ấy trước hết thuộc về Ban Thường vụ, Trung ương và Đảng
Cộng sản Đông Dương, trong đó có vai trò đặc biệt của Hồ Chí Minh - người giữ
vị trí lãnh đạo cao nhất của Đảng - người có khả năng hội tụ sức mạnh của Đảng,
của dân tộc và của thời đại. Người đã đưa con thuyền cách mạng Việt Nam
vượt qua bão tố, thác ghềnh để đến bến bờ vinh quang. Cống hiến lớn lao, xuất
sắc của Người về nghệ thuật tạo thời cơ, nắm bắt thời cơ và chớp thời cơ, sử
dụng lực lượng áp đảo của quần chúng nhân dân giành thắng lợi nhanh gọn, bất
ngờ, kịp thời và ít đổ máu… trong tổng khởi nghĩa vẫn là bài học nóng hổi và
luôn có giá trị lịch sử cho chúng ta và cho các dân tộc bị nô dịch trên thế
giới tham nghiệm, suy ngẫm.
Một trong
những bài học kinh nghiệm của Đảng ta trong phong trào cách mạng là: “Nắm vững
phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời biết tạo thời cơ và nắm vững thời cơ mở những cuộc chiến công chiến
lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tổng tiến công và
nổi dậy đè bẹp quân địch giành thắng lợi cuối cùng”15.
Thắng lợi của
cuộc cách mạng tháng Tám, là do sự kết hợp nhuàn nhuyễn giữa nhân tố chủ quan
và điều kiện khách quan. Nhân tố chủ quan chính là trình độ giác ngộ, trình độ
tổ chức của đội tiên phong của giai cấp cách mạng, có khả năng nêu ra được khẩu
hiệu, sách lược đúng và phù hợp cho từng thời đoạn lịch sử và có phương pháp
cách mạng thích hợp để phát động, tập hợp quần chúng vùng lên lật đổ ách thống
trị của bọn bóc lột. Trong cách mạng vô sản, nhân tố chủ quan chính là năng lực
lãnh đạo của giai cấp công nhân mà đại diện là Đảng Cộng sản- với bộ tham mưu
là những chiến sỹ thông minh, nhạy bén, dũng cảm biết chớp lấy thời cơ và hành
động hợp thời cơ. Điều này cho phép khẳng định: không phải lúc nào những tên đế
quốc giàu có về vật chất cũng chiến thắng các dân tộc nhỏ bé.
Có thể nhận
thấy sự gắn bó khăng khít giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong
sự thành công của cách mạng. Tiền đề khách quan của cách mạng là những yếu tố
khách quan hoàn toàn nằm ngoài ý muốn của các giai cấp cách mạng và nhân tố chủ
quan cũng tăng thêm trong tiến triển của những tiền đề khách quan của cách mạng.
Theo V.I.Lênin: “Không phải tình thế cách mạng nào cũng nổ ra cách mạng, mà chỉ
có trường hợp là cùng với tất cả những thay đổi khách quan nói trên, lại còn có
thêm một thay đổi chủ quan, tức là giai cáp cách mạng có khả năng phát động
những hành động cách mạng có tính chất quần chúng khá mạnh mẽ để đập tan hoặc
lật đổ chính phủ cũ- chính phủ mà ngay cả trong thời kỳ có những cuộc khủng
hoảng cũng sẽ không bao giờ “đổ” nếu không đẩy cho nó ngã”16.
Như vậy, điều
kiện khách quan của cách mạng không bao giờ hình thành tự phát. Hầu hết các
trường hợp trên là do sự nỗ lực kết hợp của nhân tố chủ quan, có sự tích cực
chuẩn bị, tập hợp, rèn giũa lực lượng từ trước; biết tạo lập và chủ động nắm
bắt khi thời cơ đến. Đội tiền phong của giai cấp công nhân không được ỷ lại chờ
thời mà trái lại phải chủ động trong mọi tình huống để khi thời cơ đến nhanh
chóng nắm bắt và phát động quần chúng giành chính quyền. Một khi tình thế chưa
chín muồi mà tiến hành khởi nghĩa thì cách mạng sẽ gặp nhiều tổn thất và nguy
cơ thất bại rất cao. Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã luận chứng cho điều đó. Vì thế
nhân tố chủ quan có vai trò rất quan trọng cho sự thành bại của một cuộc cách
mạng- nhân tố chủ quan vì vậy được coi là nhân tố chủ đạo trong việc vận dụng
hợp lý vấn đề thời thế nhằm đạt đến mục đích cách mạng. Bởi khi thời cơ đến nếu
không bắt kịp đúng lúc thì không bao giờ thành công mà thậm chí có tội đối với
dân tộc.
Thắng lợi rực
rỡ của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 là minh chứng hùng hồn nhất cho sự kết
hợp giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của Đảng ta, của lãnh tụ Hồ
Chí Minh. Nói cách khác đó chính là biểu hiện tài giỏi của nghệ thuật nắm bắt
thời cơ của Đảng Cộng sản Việt Nam
kết hợp với sự nỗ lực chủ quan để tạo ra thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám
vĩ đại. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi
trọng và chú ý đến điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan trong việc chuyển
hóa các điều kiện khách quan, linh hoạt và năng động cao trong việc thúc đẩy
nhanh quá trình xuất hiện tình thế mới. Và khi tình thế mới xuất hiện đã có
những động thái mới được chuẩn bị từ trước một cách chủ động ứng phó ngay để
đem lại hiệu quả cao nhất, tiết kiệm xương máu và tiền của cho nhân dân. Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đã nổ ra trong điều kiện lịch sử như thế. Điều đó thể
hiện nghệ thuật lãnh đạo cách mạng tài ba của Đảng ta mà đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh là biết chủ động tạo ra thời cơ và biết chớp lấy thời cơ đúng lúc,
nhằm giành thắng lợi từng bước, tiến tới thắng lợi hoàn toàn.
Khi
cách mạng tháng Tám thành công rồi Hồ Chí Minh đã dự đoán một
cuộc chiến tranh đầy máu lửa sẽ xảy ra. Thưc dân Pháp vẫn chưa chịu thua
và chúng vẫn mang dã tâm cướp nước ta lần nữa với chiến lược đánh
nhanh, thắng nhanh nhưng chúng đã thất bại sau chiến thắng Việt Bắc (1947),
chiến thắng Biên giới (1950) của Việt Minh. Trong lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm
4 năm ngày toàn quốc kháng chiến (1950), Người đã đánh giá sự thay đổi lực
lượng giữa địch và ta: “Tình thế bên địch ngày càng khó khăn” còn “Ta đã từ bị
động chuyển dần sang chủ động, từ thế yếu chuyển dần sang thế mạnh, từ thế thủ
chuyển dần sang thế công”17.
Với sự chuẩn
bị cẩn thận và tích luỹ về lực lượng ở căn cứ địa Việt Bắc, cộng thêm nhận thức
đúng kẻ thù và tương quan lực lượng giũa ta và địch từng nơi, từng lúc có thay
đổi, Đảng và Bác Hồ lại tiếp tục lãnh đạo dân tộc ta làm nên một Điện Biên Phủ
chấn động địa cầu (1954) được in dấu trong lịch sử nhân loại thật khó phai mờ.
Trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ của dân tộc Người không thể cùng quân và dân ta đi đến thắng lợi
cuối cùng nhưng trong giai đoạn từ những năm 1963- 1966 khi chiến tranh phá
hoại của đế quốc Mỹ mới tràn ra miền Bắc, Hồ Chí Minh đã có những tiên đoán chí
lý, về việc Mỹ chỉ thua ở Việt Nam là
thua bằng máy bay B.52 trên bầu trời Hà Nội, và thời điểm đó Người đã thức thời chỉ đạo cho bộ đội phòng không
phải nghiên cứu chu đáo cách đánh máy bay B.52, tích lũy kinh nghiệm cho cuộc
chiến về sau. Sớm hơn nữa, ngay từ năm 1962, Hồ Chí Minh đã dự báo đúng tình
hình xvaf chỉ đạo Bộ tư lệnh phòng không, thường xuyên theo dõi chặt chẽ, nắm
chắc về máy bay B52 và hoạt động của nó18.Cụ thể sát sao hơn hữa là
tối ngày 29/12/1967, Người đã gọi đồng chí Phùng Thế Tài, Tổng tham mưu quân
đội nhân dân Việt Nam lúc đó lên Phủ chủ tịch và căn dặn: “Sớm muộn đế quốc Mỹ
cũng sẽ đưa B 52 ra đánh Hà Nội rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến
trước tình huống càng sớm, càng tốt để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị… ỞViệt
Nam,
nhất định Mỹ thua. Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời ở đây”19.
Những nhắc nhở của Người là bài học quý giá, có lẽ
không chỉ lịch sử quân sự Việt Nam phải ghi nhớ mà chắc chắn lịch sử quân sự
thế giới phải lưu tâm khi tìm hiểu những nguyên nhân vì sao một dân tộc nhỏ bé
và yếu kém về vật chất khí tài mà vẫn chiến thắng trước tên đế quốc giàu có bậc
nhất thế giới như đế quốc Mỹ. Cũng thời điểm đó Người đã dự báo về thời điểm
kết thúc chiến tranh khá chuẩn xác ngay đúng thời điểm gay go nhất của cuộc
chiến tranh khi Mỹ tập trung tiềm lực quân sự mở rộng ra cả miền Bắc năm 1966:
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể kéo dài 5 năm, 10 năm.. hoặc còn lâu
hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố… có thể bị tàn phá. Song chúng
ta nhất định thắng lợi. Còn non. Còn nước, còn người. Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây
dựng hơn mười ngày nay. Ý chí quyết tâm cháy bỏng đó của Người đã truyền sang
cả dân tộc như là hào khí của thời đại Hồ Chí Minh tiếp tục truyền lửa yêu nước
cho cả dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và cuối cùng đi đến thắng
lợi quyết định- thống nhất đất nước.
Trong bức
thư nhan đề Kính báo đồng
bào phụ lão kháng chiến thư, cụ Huỳnh Thúc Kháng viết: “Người
thân yêu, kính mến nhất của đồng bào quốc dân chúng ta
là Hồ Chí Minh tiên sinh. Là bậc yêu nước đại chí sĩ, là nhà lịch
nghiệm cách mạng đại chuyên gia. Chân đi khắp năm châu mắt trông xa vạn dặm,
nhận rõ thời cuộc, lặng dò thời cơ”20
Đó là nhận định đúng đắn, là sự đánh giá của một con
người yêu nước, trăn trở trước thời cơ dân tộc nhưng chưa gặp thời trước khi
dân tộc ta giành độc lập lúc đó với một người đã vận dụng thành công vấn đề thời
thế vào thực tiễn cách mạng nước ta (Hồ Chí Minh).
Lịch sử đã chứng minh,
trong khi điều khiển một cuộc chiến tranh, trong khi lãnh đạo việc giành chính
quyền: “trên bàn cờ” có khi ta ngả “con tốt” cuối cùng cũng có thể quật đổ đối
phương”21.Nghĩa là vận dụng nghệ thuật đánh như thế nào đó, để trong
lúc đối phương vẫn con xe, pháo, mã, mà vẫn bị bí và phải chịu thua, hóa ra
yếu, yếu lại thành nguy, sự thay đổi ấy chỉ trong khoảng trở bàn tay.
Có thể nói bài Đánh cờ dưới đây là sự tổng kết một cách ngắn gọn chiến lược, sách
lược tấn công, biết thời, chủ động nắm
thời thế của Người:
Phải nhìn cho kỹ suy
cho rộng
Kiên quyết không
ngừng thế tiến công
Lạc nước hai xe đành
bỏ phí
Gặp thời một tốt
cũng thành công
Như những năm xưa của cuộc kháng
chiến chống Pháp, dù bận rộn, song ở Người vẫn thể hiện tư tưởng lạc quan, ung
dung tự tại của con người biết thời và tự tin vào sự tất thắng của cuộc kháng
chiến:
Giữa dòng bàn bạc
việc quân
Khuya về bát ngát
trăng ngân đầy thuyền
Đó chính là sự thống nhất hài hòa
trong con người cách mạng tài ba biết trước sự việc nên lúc nào cũng tự tin và
thư thái:
Trăng vào cửa sổ đòi
thơ
Việc quân đang bận
xin chờ hôm sau
Dù bận rộn công việc cách mạng song
Người vẫn lạc quan nghĩ đến trăng và thơ
Khi trăng đã vào cửa
sổ đòi thơ…
Tư tưởng luôn tấn công và tư tương
luôn chủ động nắm thời và vận dụng đúng thời đã luôn được Người thể hiện bằng
vần thơ lạc quan: Bỗng nghe vần thắng vút
lên cao. Niềm tin vào chiến thắng luôn là động lực trong cuộc sống và trong
hành động của Người vì nước, vì dân.
Có thể khẳng
định đó chính là tâm hồn của một bậc đại
trí, đại nhân, đại dũng, biết thời và vận dụng đúng thời, góp phần quan
trọng trong việc đề ra đường lối đúng đưa cách mạng Việt Nam đạt nhiều
thành quả to lớn. Có thể coi đây là một trong những đặc sắc góp phần làm nên sự
vĩ đại của Người. Những tư tưởng của Người đã và đang được hậu thế ghi nhận và
học hỏi ngay cả trong thời điểm lịch sử của thế giới đương đại./.
ĐỊA CHỈ LIÊN HỆ
TS Trần Hồng Lưu, khoa Lý luận Chính trị, Đại học Kinh
tế Đà Nẵng, 71 Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng, email: hongluu2009@gmail.com
CHÚ THÍCH
(1). Hồ Chí Minh, (2000), Toàn tập, Nxb Chính
trị Quốc gia Hà Nội, tập1. tr 28.
(2).Võ Nguyên Giáp,
(1994), Những chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
(3). Hồ Chí
Minh, (2000), Toàn tập, tập 1. tr 28.
(4). Hồ Chí Minh, (2000), Toàn
tập, tập 3, tr. ;38.
(5). Trần Đương, (2007), Hồ
Chí Minh nhà dự báo thiên tài, Nxb Thanh niên. Tr. 41- 42.
(6). Trần Đương, (2007), Sđd;
tr 28.
7, Hồ Chí Minh, 1995, Toàn tập,
tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 211.
8,Hồ Chí Minh, Sđd, tập 3, tr.
211,212.
9, Hồ Chí Minh, Sđd, tập 3, tr. 208-209.
10, Hồ Chí Minh, Sđd, tập 3,
tr. 505-506.
(11). Trần Đương, Sdd,
tr.30.
(12). HCM. Toàn tập, 1996,
tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội,
tr. 232.
(13).Võ Nguyên Giáp, Những chặng
đường lịch sử, (1994), Nxb. Chính trị Quốc gia, tr. 196
14, Hồ Chí Minh,
Sđd, tập 7, tr.230.
(15). Đàng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb. Sự thật , Hà
Nội , 1977, tr. 13.
(16). V.I.Lênin, Toàn
tập, tập 26, Nxb, Sự thật, Hà Nội, 1977, tr. 238.
(17). Xem Trần Đương, Sđd, tr.113, 114]
18, Tạp chí Cộng sản- Hồ sơ sự kiện, 40 năm chiến thắng “Hà Nội- Điện Biên Phủ
trên không”, số 244, ra ngày 7/12/2012, tr. 9.
19, Tạp chí Cộng sản- Hồ sơ sự kiện, Sđd, tr. 9.
(20). Trần Đương, (2007), Sđd, tr .153.
(21). Trần Nhâm,
(1995), Nghệ thuật biết thắng từng bước, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.; tr 247.
BÀI ĐẪ ĐĂNG TRÊN TC KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM, SỐ 4/ 2013, Tr 10-17
Bài mới rất hay. Chúc mừng sư phụ.
Trả lờiXóa