Lối đi nào cho đổi mới giáo dục đại học?
(Dân trí)-Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự thành công trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Đây cũng là bài toán đặt ra cho giáo dục ĐH nhiệm vụ to lớn và vinh dự đó là đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng.
Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố quan
trọng thể hiện nội lực của quốc gia, góp phần phát triển kinh tế - xã
hội bền vững, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Chất
lượng đào tạo nói chung và chất lượng đào tạo đại học nói riêng được đảm
bảo bởi 4 yếu tố cơ bản, đó là: Đội ngũ giảng viên; Cơ sở vật chất;
Chương trình đào tạo; Tổ chức quản lý quá trình đào tạo. Trong đó, quá
trình đổi mới giáo dục đại học trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay,
để thích ứng và phát triển, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, tăng sức
cạnh tranh của giáo dục đại học có hai yếu tố cần được đặc biệt quan tâm
là: Chương trình và Tổ chức quản lý đào tạo.
PGS.TS Lê
Thế Vinh - Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật Vinh đã có bài viết để phân tích
chi tiết hai yếu tố cần được đặc biệt nêu trên. Dân trí xin đăng tải bài viết của PGS.TS Lê Thế Vinh để bạn đọc đánh giá và cùng thảo luận chia sẻ.
Bài 1: Đổi mới chương trình đào tạo như thế nào?
Một số nguyên tắc chuyển đổi chương trình đào tạo
Đổi mới
chương trình giáo dục đại học và hội nhập quốc tế là một trong những
nội dung lớn nhất của việc đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào
tạo. Theo tinh thần đổi mới căn bản, việc thay đổi chương trình lần này
là nhằm khắc phục sự quá tải đối với khối kiến thức cơ sở, nội dung
trùng lắp ở các khối kiến thức chuyên sâu (hình 1 bên dưới),
thực hiện chuyển mô hình từ truyền thụ kiến thức sang hình thành năng
lực cho người học, đào tạo nguồn nhân lực hội nhập thị trường lao động
quốc tế. Giảm kiến thức hàn lâm, tăng kiến thức gắn với thực tiễn, ứng
dụng. Khi thiết kế chương trình thể hiện được sự chuyển đổi từ dạy kiến
thức khoa học sang dạy cho sinh viên tự học, cách tự học, tự nghiên cứu.
giáo viên (GV) hướng dẫn cho sinh viên (SV) phương pháp, truyền thụ các
kỹ năng qua đó giúp SV biết chủ động chiếm lĩnh kiến thức, biết độc lập
suy nghĩ, tìm tòi kiến thức.
Quá trình
học được thay đổi từ việc luyện cho SV kỹ năng làm bài tập sang hướng
dẫn các em phân tích, vận dụng, sáng tạo. Chuyển từ phương pháp xây dựng
chương trình theo hướng tiếp cận nội dung (SV học được bao nhiêu kiến
thức) sang hướng tiếp cận năng lực (SV làm được những gì sau khi học
xong chương trình).
Coi trọng
năng lực cốt lõi, khả năng chủ yếu giúp các em có thể thành công trong
nhiều lĩnh vực. Chương trình phù hợp với thực tiễn biến động: kinh tế xã
hội liên tục thay đổi, yêu cầu con người, nguồn nhân lực cũng phải thay
đổi để thích ứng vì vậy chương trình cần có nhiều môn học tự chọn, có
tính mở. Công tác phát triển chương trình hàng năm ở các trường đại học
sẽ gồm hai việc đó là điều chỉnh nội dung cho tương thích với nhu cầu
của thị trường lao động và cập nhật kiến thức khoa học mới.
Cấu trúc chương trình chuyển đổi từ
mô hình chuyên nghiệp (cứng) sang mô hình năng lực (mềm). Mục tiêu về
năng lực thực hiện quy định nội dung chương trình thông qua các bộ chuẩn
năng lực. Từ bộ chuẩn năng lực của chương trình cho phép GV được linh
hoạt và chủ động trong tổ chức dạy học, giúp người học đạt được các mục
tiêu năng lực, cũng như thuận lợi trong đánh giá kết quả học tập.
Với cách
thức tổ chức dạy học ở thành phố, nông thôn, các tỉnh thành, vùng miền
là khác nhau, năng lực của người học, đặc điểm văn hóa, kinh tế xã hội ở
từng địa phương, vì vậy, GV và nhà trường căn cứ vào bộ chuẩn năng lực,
tham khảo tài liệu hướng dẫn giảng dạy để thiết kế nội dung chi tiết,
kiến thức gần với cuộc sống thực. Điều này phát huy tính sáng tạo của
GV, gắn hoạt động nghiên cứu với giảng dạy. Nên chương trình được thiết
kế theo mô hình tiếp cận năng lực phù hợp khi sử dụng ở các địa phương,
vùng miền khác nhau.
Kiến thức hội nhập quốc tế trong chương trình đào tạo
Ngoài
việc đổi mới chương trình đào tạo theo tinh thần đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục đại học như nội dung trao đổi trên đây, khối kiến thức hội
nhập quốc tế đóng vai trò quan trọng và cần được nghiên cứu kỹ lưỡng và
đưa vào chương trình đào tạo. Mối tương quan giữa khối lượng kiến thức
thuộc các chương trình đào tạo đại học ở các trường trên thế giới, khu
vực và ở Việt Nam được mô tả ở hình 2.
Với mục
đích nâng cao năng lực hội nhập quốc tế cho người học, chương trình được
xây dựng trên cơ sở phân tích nhu cầu thực tiễn về kiến thức hội nhập
quốc tế. Trong đó, phần kiến thức chung được chú trọng, các môn học như
ngoại ngữ, môn thực tập ở nước ngoài.
Nhằm
trang bị cho SV kỹ năng độc lập đi lại, tuân thủ luật pháp quốc tế, cũng
như những quy định ở nước sở tại. Biết cách trao đổi, chia sẻ thông tin
với người nước ngoài cùng phối hợp làm việc, biết và trân trọng nét đẹp
văn hoá của đất nước, con người nơi SV đến thực tập.
Với những
môn học này, SV được trang bị kỹ năng, kiến thức cơ bản và trở thành
người lao động Việt Nam mới, có khả năng hội nhập quốc tế. Do đó khả
năng tìm kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp được mở rộng. Lòng yêu nước, ý
thức về dân tộc, tự hào hơn về đất nước Việt Nam được thể hiện rõ.
Khối kiến
thức địa phương giúp SV hiểu rõ hơn về tiềm năng, thế mạnh về điều kiện
kinh tế, xã hội của vùng miền nơi trường đóng, như một ví dụ cụ thể về
nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước thông qua việc ứng dụng khoa
học kỹ thuật, kiến thức kinh doanh, quản lý để phát triển kinh tế địa
phương. Xây dựng ý thức cho SV có thể sản xuất ra của cải vật chất, tạo
ra các dịch vụ và làm giàu trên chính địa phương.
Trên cơ
sở năng lực của từng SV, có thể giúp các em định hình rõ khả năng lao
động chất lượng cao của bản thân. Từ mức cơ bản, khả năng hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao thuộc lĩnh vực chuyên ngành được đào tạo. Đến các
mức cao hơn, đó là tự tạo ra được việc làm cho chính mình, sản xuất ra
của cải vật chất, tạo ra các dịch vụ. Hoặc khả năng cao nhất mà SV và
Nhà trường mong muốn đó là sau khi tốt nghiệp SV có thể trở thành người
tạo ra được nhiều việc làm cho chính bản thân và nhiều người khác nữa.
Việc làm này là hành động cụ thể xây dựng phát triển kinh tế xã hội tại
địa phương và góp phần phát triển đất nước. Thực hiện mục tiêu đào tạo
người lao động Việt Nam mới có tư tưởng toàn cầu và hiểu rất rõ địa
phương, với khả năng hội nhập quốc tế tốt.
(còn tiếp)
PGS.TS Lê Thế Vinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét