Thứ Sáu, 11 tháng 7, 2014

Nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh
22:21' 4/2/2014
TCCSĐT - Thực tiễn cách mạng Việt Nam 84 năm qua khẳng định: Trình độ trí tuệ của Đảng là một trong những tiền đề cơ bản bảo đảm cho Đảng đề ra đường lối đúng đắn đáp ứng yêu cầu lịch sử trong suốt thời kỳ đấu tranh chống thực dân đế quốc giành chính quyền về tay nhân dân, cũng như khi cả nước bước vào sự nghiệp xây dựng đất nước, thực hiện công cuộc đổi mới nhằm hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Do vậy, không ngừng nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng phải được xem là một nhiệm vụ cơ bản và cấp thiết hàng đầu trong xây dựng Đảng. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này, những thế hệ cán bộ, đảng viên chúng ta luôn có chỗ dựa tin cậy là tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao năng lực và trình độ trí tuệ của Đảng.
1- Muốn nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng, điều đòi hỏi đầu tiên là phải nâng cao trình độ trí tuệ của bản thân đội ngũ cán bộ, đảng viên. V.I. Lê-nin đã từng dạy rằng, người cộng sản phải biết làm giàu trí tuệ của mình bằng kho tàng tri thức của nhân loại. Trong kho tàng tri thức đó, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trước hết đến sự cần thiết phải học tập và kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Ngay từ những năm đầu của thập niên 20 thế kỷ XX, khi giai cấp phong kiến Việt Nam ươn hèn đã đầu hàng thực dân đế quốc, giai cấp tư sản dân tộc non yếu chủ trương thỏa hiệp với thực dân đế quốc vì những lợi ích riêng của họ, tư tưởng của các tầng lớp tiểu tư sản đi vào bế tắc… thì chính Nguyễn Ái Quốc, với kinh nghiệm tích lũy sau nhiều năm thực tiễn hoạt động cách mạng đã sớm tìm ra được con đường duy nhất đúng để giải phóng dân tộc và quần chúng lao động khỏi ách nô lệ thực dân đế quốc - con đường cách mạng vô sản. Lãnh đạo con đường cách mạng đó không ai khác ngoài và phải là chính đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, bản thân Đảng phải rèn luyện để trở thành một tổ chức thực sự vững mạnh. Nhưng “Đảng muốn vững, - như Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh, - thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tầu không có bàn chỉ nam”(1). Chủ nghĩa ấy chính là chủ nghĩa Mác - Lê-nin - thế giới quan và phương pháp luận cách mạng khoa học của giai cấp vô sản và các lực lượng tiến bộ trong thời đại mới. Đánh giá chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong số các học thuyết, các trào lưu tư tưởng về cách mạng đang lan truyền trên thế giới cũng như ở Việt Nam vào những thập niên đầu của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lê-nin”(2). Kiên định quan điểm đó, nên ngay từ khi chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến lên, Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác đào tạo và trang bị vũ khí lý luận Mác - Lê-nin cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Vậy, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin là thế nào? Hồ Chí Minh đã giải thích một cách dung dị, cô đọng và dễ hiểu là “học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình”; là học tập phương pháp, nắm vững lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin chứ không phải là học một cách máy móc, giáo điều. Người luôn nhắc nhở chúng ta rằng “chủ nghĩa Mác - Lê-nin là kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh”(3). Học chủ nghĩa Mác - Lê-nin để nắm bắt được quy luật vận động và phát triển của xã hội, để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế nước ta. Học chủ nghĩa Mác - Lê-nin để trung thành với nó, bảo vệ nó và không ngừng nâng cao, hoàn thiện nó. Làm theo lời dạy của Người và cũng chính từ thực tiễn phong phú của cách mạng nước ta, Đảng ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm lớn, mà một trong những bài học đó được đúc kết trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), chính là ‘Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ… để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra”(4).
Hồ Chí Minh đã vạch rõ một trong những nhược điểm lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên là sự yếu kém về trình độ lý luận. Ở một bộ phận cán bộ đảng viên nảy sinh tư tưởng chủ quan, tự mãn về trình độ lý luận của mình, không thấy rằng do yếu kém về lý luận nên trước nhiệm vụ cách mạng ngày càng mới mẻ và phức tạp thì trong lãnh đạo, chỉ đạo tất sẽ không tránh khỏi lúng túng, thậm chí là dẫn đến sai lầm. Lười biếng học lý luận cũng có nghĩa là thiếu trách nhiệm và không hoàn thành nghĩa vụ của người đảng viên.
Học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin là điều cần thiết để nâng cao năng lực trí tuệ của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhưng chưa đủ, Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải học tập nghiên cứu “những chỉ thị, nghị quyết, luật, lệnh của Đoàn thể và Chính phủ”(5) vì những chỉ thị, nghị quyết, luật, lệnh đó, rút cuộc, không chỉ là sự vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh Việt Nam mà còn là kết quả phản ánh khách quan hiện thực xã hội Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử cách mạng.
Ngoài những nguồn tài liệu lý luận trên, Hồ Chí Minh còn nhấn mạnh đến tầm quan trọng và sự cần thiết phải nghiên cứu, xem xét những “tài liệu thiết thực” khác, đó là “những kinh nghiệm do người học mang đến, kinh nghiệm thành công cũng như kinh nghiệm thất bại”. Người đánh giá “những kinh nghiệm đó đem trao đổi, gom góp lại tức là những bài học quý…”(6). Bởi lý luận không phải là một cái gì đó đối lập với kinh nghiệm, mà ngược lại, lý luận chẳng qua là “sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là sự tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử”(7).
Để nâng cao trình độ trí tuệ của mình, người cán bộ đảng viên còn phải “ra sức học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ”, bởi chỉ có như vậy mới có tri thức hiểu biết công việc và hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn, góp phần bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng lãnh đạo chính trị của Đảng đối với công tác chuyên môn.
Việc học tập và nghiên cứu có đạt kết quả tốt hay không, điều đó đòi hỏi bản thân người học phải có thái độ và phương pháp học tập đúng. Thái độ học tập đúng là phải “khiêm tốn, càng cao càng giỏi, càng khiêm tốn, phải có lòng cầu tiến bộ”. Phê phán những thói tự kiêu, tự mãn, tự phụ, không cầu tiến bộ,… Hồ Chí Minh luôn căn dặn mỗi cán bộ đảng viên phải “tích cực tự động hoàn thành kế hoạch học tập, nêu cao tinh thần chịu khó, cố gắng không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào trong học tập”.
Về phương pháp học tập, Hồ Chí Minh nhắc nhở “cách học tập… phải lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”. Khi học tập, nghiên cứu bất cứ vấn đề gì về xã hội, con người,… cũng đều phải “xem xét toàn diện, xem quá khứ, nhất là xem hiện tại để hiểu biết và suy đoán tương lai. Có như thế mới nhận định tình hình, mới nhận xét sự việc xảy ra được đúng đắn”.
Muốn cho việc học tập trở thành phương thức cơ bản để nâng cao năng lực trí tuệ cán bộ, đảng viên thì phương châm “học đi đôi với hành”, “lý luận liên hệ với thực tế” phải được đặc biệt chú trọng. Người cho rằng, học mà không đi đôi với hành, học mà không biết hành là mới “chỉ có tri thức một nửa”, “muốn thành một người trí thức hoàn toàn thì phải đem cái tri thức đó áp dụng vào thực tế”, “lý luận mà không áp dụng vào thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng nghìn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách…”. Người coi thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc mác-xít căn bản và vạch rõ rằng những những sai lầm từng mắc phải trong cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, cải tạo xã hội chủ nghĩa là do sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn “chưa được hoàn toàn”. Trong phương châm “học đi đôi với hành”, “lý luận liên hệ với thực tiễn” thì việc học lý luận không có mục đích tự thân. “Không phải học lý luận vì lý luận”, “không phải học để trang sức” hay để “tạo cho mình một cái “vốn” để “mặc cả với Đảng”… đó là những động cơ học tập sai lầm phải kiên quyết “tẩy trừ cho sạch”.
Tuy kết quả học tập về cơ bản là do nỗ lực sáng tạo và ý thức phấn đấu của bản thân người học, nhưng như thế chưa đủ. Tấm gương của người thầy cũng ảnh hưởng lớn đến kết quả ấy. Tiếp tục tư tưởng của C. Mác rằng “bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”, Hồ Chí Minh đòi hỏi người dạy trước nhất phải có thái độ và phương pháp dạy đúng, nghĩa là “người huấn luyện phải làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc”. Người nhắc nhở “người huấn luyện phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình. Người huấn luyện nào tự cho là mình biết đủ cả rồi, thì đó là người dốt nhất”(8) .
2- Một trong những cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào việc tiếp tục phát triển lý luận mác-xít là Người đã vận dụng sáng tạo những nguyên tắc xây dựng một chính đảng vô sản kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam - sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Đảng đấu tranh không chỉ vì lợi ích của giai cấp công nhân mà còn vì lợi ích của toàn thể nhân dân lao động và của dân tộc. Chính vì vậy, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam chứ không một lực lượng nào khác có thể và có năng lực phát động, tập hợp được lực lượng tất cả các giai tầng trong xã hội tham gia các quá trình cải biến cách mạng, và, cũng chính vì vậy, trí tuệ của Đảng được tạo nên một phần quan trọng còn phải dựa vào nền tảng trí tuệ chung của toàn xã hội. Hồ Chí Minh căn dặn: “Trong phong trào giải phóng sôi nổi, nảy nở ra rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. Chúng ta không được bỏ rơi họ. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước(9) . Người phê phán những cán bộ, đảng viên nào phạm phải bệnh tự cao tự đại, coi thường người ngoài Đảng. Những cán bộ, đảng viên phạm phải sai lầm vừa nêu đều bị Người phê bình là “hẹp hòi”, “biệt phái”… Điều mà Người băn khoăn, lo lắng là “E vì chúng ta nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân”. Người đánh giá cao sự đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng xã hội mới của cả những người có tài dù trước đây họ đã từng làm việc cho chính quyền cũ. Về điều này, Hồ Chí Minh đã viết: “Các ngài đã đem tài năng tri thức lo bồi bổ về mặt kinh tế và xã hội. Các ngài xứng đáng là những chiến sĩ xung phong. Tôi mong rằng các ngài cũng sẽ đem hết tài năng và tri thức giúp cho Chính phủ về mặt kiến thiết, các ngài sẽ là những cố vấn có kinh nghiệm, có tài năng của Chính phủ”(10).
3- Trong tiềm năng và sức mạnh trí tuệ chung của xã hội, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến việc phát huy trí tuệ của đội ngũ trí thức. Người khẳng định rằng, “kháng chiến và kiến quốc thì phải cần trong các ngành kinh tế tài chính, quân đội, văn hóa có những người trí thức giúp vào mới thành”. Đánh giá cao những điểm tích cực của đội ngũ trí thức Việt Nam, như “dễ hấp thụ được tinh thần cách mạng, dễ theo cách mạng…”, nhưng đồng thời Người cũng vạch ra và phê phán nghiêm khắc những khuyết điểm của họ, như chủ nghĩa cá nhân, tính không kiên quyết, thái độ bàng quan, tính bảo thủ, địa vị,… Đối với những trí thức của xã hội cũ, để sử dụng có hiệu quả tài năng và tri thức của họ, để họ trở thành những người trí thức của giai cấp công nhân, góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng xã hội mới thì điều cần thiết là phải “cải tạo tư tưởng” của họ. Thế nhưng đây là việc không giản đơn, đòi hỏi phải thực hiện một cách “lâu dài và gian khổ”, nó chính là “một cuộc cách mạng trong người”, bởi vậy, nó phải được thực hiện một cách “tự nguyện tự giác”.
Cùng với việc cải tạo và sử dụng trí thức cũ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến việc cần thiết phải đào tạo đội ngũ trí thức mới từ các tầng lớp công nhân và nông dân, thực hiện “công nông trí thức hóa”, nghĩa là cần nâng cao trình độ tri thức cho các tầng lớp công nhân và nông dân. Tuy nhiên, việc thực hiện “công nông trí thức hóa” không tách rời việc thực hiện đồng thời “trí thức công nông hóa”, nghĩa là trí thức cần “gần gụi công nông và học tập tinh thần, nghị lực, sáng kiến và kinh nghiệm của công nông”(11).
Xuất phát từ quan điểm là mỗi đường lối, mỗi chính sách, mỗi hoạt động của Đảng đều phải “dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân chúng”, “dựa vào nhân dân để thực hiện nguyện vọng chính đáng của nhân dân”… Hồ Chí Minh đặt nhiệm vụ nâng cao năng lực trí tuệ của Đảng trong mối quan hệ với nâng cao trí tuệ của toàn dân, mà trước hết là phải thực hiện được trên thực tế việc “nâng cao dân trí”. Bởi “dốt nát cũng là kẻ địch, địch dốt nát tấn công ta về tinh thần, cũng như địch thực dân tấn công ta bằng vũ lực…”. Căn cứ vào hoàn cảnh thực tế Việt Nam trước cách mạng là tuyệt đại đa số nhân dân lao động mù chữ, nên không phải ngẫu nhiên mà ngay sau khi giành được độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh đã coi “nâng cao dân trí” là một trong những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. “Nâng cao dân trí” được bắt đầu bằng chiến dịch chống nạn mù chữ với phong trào “bình dân học vụ” không chỉ dừng lại ở mục đích làm cho mọi người biết đọc, biết viết,… mà còn trang bị cho họ những tri thức đủ khả năng làm chủ thực sự vận mệnh của bản thân cũng như vận mệnh của dân tộc.
4- Trong kho tàng tri thức của nhân loại, ngoài chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng, Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ đảng viên phải biết kế thừa những tinh hoa truyền thống văn hiến mấy nghìn năm của dân tộc và tiếp thu có chọn lọc những nhân tố hợp lý của các học thuyết và lý luận trong suốt chiều dài lịch sử tư tưởng nhân loại. Người nhấn mạnh đây cũng là nguồn lực để nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng. Chẳng hạn, khi đánh giá học thuyết của Khổng Tử, Người đã nhận xét: “Tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng, song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học”(12) . Bản thân Người đã nêu một tấm gương mẫu mực là “học trò nhỏ” của tất cả những nhà tư tưởng lớn của nhân loại cũng như của dân tộc.
Cách đây 45 năm, trong Di chúc của Người, Hồ Chí Minh đã viết rằng điều mong muốn cuối cùng, tột bậc của Người là “toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Mong muốn của Người cũng là nguyện vọng, là mục tiêu của toàn Đảng, toàn dân ta. Nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng là một nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt trong thực hiện mục tiêu này./.
---------------------------------------
1, 2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 2, tr. 268
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 247
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 66
5, 6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 50, 49
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 499
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 46
10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 276
11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 152
12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 204
Nguyễn Tiến NghĩaTạp chí Cộng sản






Từ triết lý giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh nghĩ về công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay
10:58' 15/11/2013
TCCSĐT - Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp “trồng người” với triết lý nhân văn sâu sắc “vì lợi ích mười năm phải trồng cây/ vì lợi ích trăm năm phải trồng người”.

Vai trò, sứ mệnh của giáo dục
Cách đây hơn nửa thế kỷ, khi bị giam cầm trong nhà lao của chính quyền Tưởng Giới Thạch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết những vần thơ:
       Ngủ thì ai cũng như lương thiện,
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ hiền;
Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên
 (Nửa đêm - bản dịch của Nam Trân)

Những vần thơ trên không chỉ giúp Người vơi đi nỗi cô đơn, buồn sầu trong những tháng ngày bị tù đày, mất tự do mà ẩn sâu trong những câu chữ ấy là một tư tưởng, triết lý giáo dục thấm đượm tinh thần nhân văn, được đúc rút từ chính cuộc đời hoạt động cách mạng và quy luật muôn đời của cuộc sống.
Bản tính, nhân cách của mỗi người không phải do trời sinh mà căn bản, quan trọng là do sự giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội, nhất là sự nỗ lực, cố gắng của bản thân. Ý thức rõ về sứ mệnh cao cả của giáo dục đối với sự hình thành nhân cách con người - những người sẽ làm nên tương lai, vận mệnh nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành nhiều thời gian chăm lo cho sự phát triển của sự nghiệp “trồng người”.
Dù trong hoàn cảnh chiến tranh hay khi đất nước hòa bình xây dựng cuộc sống mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác giáo dục. Ở thời điểm cách mạng còn trong “trứng nước”, Người đã có kế hoạch mở lớp đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ, truyền đạt những tri thức lý luận về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, về kinh nghiệm làm cách mạng và con đường đấu tranh giải phóng dân tộc. Người đã đào tạo, huấn luyện được những lớp cán bộ tiên phong, những người học trò xuất sắc, những chiến sĩ cộng sản kiên trung, góp phần to lớn vào sự thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, đất nước lại rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Người coi diệt “giặc dốt” cũng quan trọng không kém việc diệt “giặc đói”, “giặc ngoại xâm”. Nhờ chủ trương đó, các phong trào Bình dân học vụ, mở lớp mở trường được phát động, từ già tới trẻ ai nấy đều ra sức học lấy con chữ, học để ý thức rõ hơn về mình, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, học để mở mang tri thức, làm chủ nước nhà. Trong lần về thăm Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc mới được thành lập tại chiến khu Việt Bắc (năm 1949), Người đã ghi vào sổ vàng lưu niệm những lời căn dặn tâm huyết như nhắc nhở, khuyên răn, thúc giục các thầy cô giáo, các anh chị em học viên cần phải xác định rõ mục đích, động cơ của việc học. Trả lời cho câu hỏi “Học để làm gì?”, Người viết: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại…”.
Giữa bộn bề công việc của một đất nước mới thoát khỏi chiến tranh, trên cương vị Chủ tịch nước, Người luôn luôn nhắc nhở những đồng chí, những cán bộ có trách nhiệm phải thường xuyên quan tâm, đầu tư nhiều hơn nữa cho giáo dục; bồi dưỡng đạo đức, tri thức cách mạng cho thế hệ trẻ, cho muôn đời sau, phải tạo mọi điều kiện để mỗi người có thể phát triển toàn diện, bởi con người là nguồn lực quan trọng để kiến thiết, xây dựng nước nhà. Trước lúc “đi xa”, trong bản Di chúc thiêng liêng, Người căn dặn: “Đảng cần phải chăm sóc, giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”(1). Không chỉ đến Di chúc mà trong các bài báo, bài diễn văn đọc tại Đại hội, Hội nghị giáo dục, thư thăm hỏi, chúc mừng, Người luôn nhấn mạnh đến sứ mệnh thiêng liêng, cao cả của ngành giáo dục. Người viết: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, “Dốt thì dại, dại thì hèn”, “Dốt nát cũng là kẻ địch”,…
Vai trò, vị trí quan trọng của người thầy
Viết về đội ngũ người thầy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao những cống hiến, hy sinh lớn lao, thầm lặng của họ dành cho thế hệ trẻ, cho tương lai nước nhà. Họ xứng đáng là những chiến sĩ văn hóa, kỹ sư tâm hồn, người cha, người mẹ thứ hai của học trò.
Nói về công lao to lớn của người thầy, trong Thư gửi anh chị em giáo viên Bình dân học vụ, Người ngợi ca: “Anh chị em là những người vô danh anh hùng. Tuy là vô danh nhưng rất hữu ích, một phần tương lai nước nhà nằm trong sự cố gắng của anh chị em”(2). Những con người “vô danh anh hùng” ấy đã góp công góp sức mình cho sự phát triển, trường tồn của đất nước, đem trí tuệ gieo vào tâm hồn, suy nghĩ của thế hệ trẻ, để mai này lớn khôn các em sẽ trở thành những nhà khoa học, những cán bộ giỏi, những công dân có phẩm chất, tài năng, đóng góp vào sự phát triển, phồn vinh của đất nước.
Sức mạnh của giáo dục có thể làm nên nhiều điều kỳ diệu, tạo ra những thay đổi lớn, tác động tích cực tới con người và xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “muốn phát triển văn hóa thì phải cần thầy giáo... nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục”. Trong lần về thăm Trường Đại học Sư phạm Hà Nội nói chuyện với các thầy cô giáo tương lai, Người đánh giá cao nghề dạy học: “Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản? Người thầy giáo tốt, thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh”(3).
Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng nhưng người gánh trọng trách lớn lao lại thuộc về những người thầy. Để dạy tốt, đào tạo được những con người mới, có tài năng, trí tuệ, phẩm chất thì thầy cũng phải luôn cố gắng, nỗ lực vươn lên, không ngừng tìm tòi, sáng tạo. Với người thầy, chữ tâm, chữ tài phải được đặt lên hàng đầu. Đề cập đến đạo đức người thầy, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ một lần động viên, khuyên nhủ các thầy cô phải giữ vững phẩm chất đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính; phải yêu nghề, yên tâm công tác; phải thật thà đoàn kết, nâng cao tinh thần trách nhiệm; không nên “đứng núi này trông núi nọ”, muốn thay đổi công tác, kèn cựa vì địa vị; phải thương yêu các cháu như con em ruột thịt của mình. Người nhấn mạnh: “Thầy và trò phải luôn luôn nêu cao tinh thần yêu Tổ quốc, yêu chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình cảm cách mạng với công nông, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng, triệt để tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sẵn sàng nhận bất cứ nhiệm vụ nào mà Đảng và nhân dân giao cho”. “Dạy cũng như học phải biết chú trọng cả tài lẫn đức”, “Dạy và học để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Nhà trường phải gắn liền với thực tế của nước nhà, với đời sống của nhân dân”(4)...
Theo Người, mỗi cấp học, lứa tuổi đều có những đặc điểm tâm lý khác nhau, người thầy phải xác định rõ đối tượng, mục tiêu để có nội dung, phương pháp giảng dạy phù hợp, đạt kết quả cao nhất. Giáo dục phải làm sao phát huy được những năng lực, tố chất của người học về các mặt đức, trí, thể, mỹ. Trong Thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (tháng 9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi gắm niềm tin tưởng và những kỳ vọng vào một nền giáo dục mới sẽ giúp các em phát triển một cách toàn diện những năng lực sẵn có. Đó là một nền giáo dục năng động, tiên tiến, lấy học sinh làm trung tâm, một nền giáo dục vì sự phát triển toàn diện, tiến bộ của con người: “Ngày nay các em được cái may mắn hơn cha anh là được hấp thu một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”.
Để thực hiện tốt sứ mệnh cao cả đó, trong nhà trường đòi hỏi các thầy cô phải gương mẫu đi đầu trong việc rèn đức, luyện tài, phải có chuyên môn giỏi, có tình yêu và sự tâm huyết với nghề. Nói về công tác huấn luyện và học tập, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Không phải ai cũng huấn luyện được. Muốn huấn luyện thợ rèn, thợ nguội thì người huấn luyện phải thạo nghề rèn, nghề nguội. Người huấn luyện của đoàn thể phải làm kiểu mẫu về mọi mặt tư tưởng, đạo đức, lối làm việc, phải học thêm mãi. Cách thức huấn luyện phải làm sao cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều. Huấn luyện từ dưới lên trên, phải gắn liền lý luận với công tác thực tế, huấn luyện phải nhằm đúng yêu cầu, phải chú trọng việc cải tạo tư tưởng. Phải gắn chặt giữa học với hành, lý luận với thực tiễn, kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng nhau. Nghiên cứu mà không thực hành là nghiên cứu suông. Thực hành mà không nghiên cứu thì thường hay bị mù quáng... Người huấn luyện nào mà tự cho mình đã biết đủ cả rồi, thì người đó dốt nhất”(5).
Những câu nói thật giản dị khiêm nhường nhưng hàm chứa cái nhìn biện chứng, khách quan, khoa học về biện pháp, cách thức “trồng người”. Những lời tâm huyết ấy như đang nhắc nhở chính những người thầy hôm nay phải gắn chặt lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành, nêu cao tình thần tự giác học tập của học sinh và của chính mình: Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân.
Đối với công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, Người khẳng định “cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Vì vậy huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Do đó, Người đã thẳng thắn chỉ ra những ưu, khuyết điểm mà các cơ sở giáo dục của trường Đảng mắc phải như: “lớp quá đông, mở lớp lung tung. Vì mở nhiều lớp nên thiếu người giảng. Thiếu người giảng thì học viên đâm chán nản. Thiếu người giảng thì phải đi “bắt phu”, vì thế người đến giảng bao giờ cũng hấp tấp, lướt qua lớp này một chút, lớp khác một chút như “chuồn chuồn đạp nước”, dạy không được chu đáo... Rốt cuộc chỉ tốn gạo mà học thì học táp nhoang”(6).
Có thể nói những tư tưởng, quan điểm của Người về giáo dục, về tư cách đạo đức, phẩm chất, trách nhiệm, vị thế của người thầy được viết ra cách đây hơn nửa thế kỷ nhưng vẫn vẹn nguyên tính thời sự, trở thành kim chỉ nam và phương châm hành động của đội ngũ những người làm thầy hôm nay. Với những người thầy, cần phải đi trước đón đầu, “phải có chí khí cao thượng, phải “tiên ưu hậu lạc””(7), “dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt học tốt”(8)...
Từ triết lý giáo dục của Người nghĩ về giáo dục hiện nay
Ngày nay, sau 44 năm kể từ khi Người “đi xa”, gần 30 năm đất nước thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, giáo dục Việt Nam cũng có những bước phát triển, song vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế nhận định: ngành giáo dục - đào tạo của nước ta “chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất.
Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ sở vật chất, kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn”(9).
Đứng trước thực trạng đó, đòi hỏi phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo. Đổi mới phải bắt đầu từ “những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học”. Đó là một quan điểm đúng đắn, đáp ứng những yêu cầu, đòi hỏi cấp bách từ đời sống thực tiễn và xu thế phát triển giáo dục của thế giới, khắc phục những tồn tại, bất cập để giáo dục phát huy tốt vai trò, sứ mệnh cao cả trong việc “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Có thể nói, trong bối cảnh hội nhập, giao lưu hiện nay, những người có trách nhiệm với sự nghiệp “trồng người”, nhất là đội ngũ người thầy phải nêu cao hơn nữa bản lĩnh, đạo đức cách mạng, phải thực hành dân chủ trong trường học, tạo sự đoàn kết, nhất trí, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Ngày nay đọc lại những lời di huấn của Người về giáo dục, chúng ta càng thấm thía hơn tầm nhìn xa rộng, thiết thực của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Trong trường cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt thì hỏi, bàn cho thông suốt. Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò chứ không phải “cá đối bằng đầu””(10). Có dân chủ chúng ta mới có điều kiện nhìn nhận lại chính mình, cùng nhau đoàn kết tìm ra những hướng đi thích hợp, cùng nhau phát triển, để “dân tộc Việt Nam sẽ bước tới đài vinh quang, sánh vai với các cường quốc năm châu” như điều mong ước, kỳ vọng của Người./.
-----------------------------------------------------------
Chú thích:
(1) Hồ Chí Minh: Di chúc, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1999, tr. 38 - 39
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, t. 7, tr. 32
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 330
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 402
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 49 - 50
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 53
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 331
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 403
(9) Dẫn theo http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Tieu-diem/2013/24426/Nghi-quyet-Hoi-nghi-Trung-uong-8-khoa-XI-ve-doi-moi.aspx
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 7, tr. 455
ThS. Nguyễn Huy Phòng




Kiên trì thực hiện triết lý phát triển giáo dục Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh
0:49' 19/11/2013
TCCSĐT - Triết lý giáo dục là cơ sở lý luận, là công cụ nhận thức, định hướng chỉ đạo thực hiện phát triển nền giáo dục của đất nước. Ở Việt Nam, triết lý giáo dục được hình thành và phát triển qua các giai đoạn lịch sử. Ngày nay, khi bối cảnh thế giới đang có nhiều đổi thay, hơn lúc nào hết, triết lý giáo dục Việt Nam cần được bổ sung, hoàn thiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, hướng tới mục tiêu xây dựng một nền giáo dục tiên tiến, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.


Triết lý giáo dục Việt Nam


Triết lý giáo dục bao gồm các quan điểm, tư tưởng về vai trò, vị trí của giáo dục, đường lối, phương hướng phát triển, mục tiêu, phương pháp, nội dung, mô hình tổ chức giáo dục, chủ thể và đối tượng giáo dục…; trên cơ sở khái quát từ thực tiễn, nhằm đào tạo những con người (nguồn nhân lực) phù hợp với đặc điểm kinh tế, chế độ chính trị, đời sống xã hội và trình độ văn hóa của thời đại.

Trong lịch sử, giáo dục Việt Nam bao giờ cũng có triết lý giáo dục riêng phù hợp với truyền thống văn hóa dân tộc. Từ xưa, triết lý giáo dục được diễn giải một cách tự nhiên, giản dị bởi những câu thành ngữ, tục ngữ như: “Không thầy đố mày làm nên”, “Học thầy không tày học bạn”, “Học một biết mười”, “Ăn vóc học hay”, “Học đi đôi với hành”, “Tiên học lễ, hậu học văn”… Qua đó quan niệm giáo dục của nhân dân ta về đối tượng, phương pháp giáo dục được thể hiện khá rõ nét và có bản sắc văn hóa, tính khoa học nên đã để lại kho tàng tri thức đồ sộ.

Triết lý giáo dục cách mạng Việt Nam được hình thành sau Cách mạng Tháng Tám với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó triết lý giáo dục Hồ Chí Minh giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Đây là một bộ phận trong hệ tư tưởng và tri thức làm nên thành công của cuộc kháng chiến kiến quốc vĩ đại, xây dựng đất nước Việt Nam mới, mở ra một kỷ nguyên độc lập, tự do trong lịch sử dân tộc. Triết lý giáo dục cách mạng bao gồm toàn bộ những tư tưởng chỉ đạo xây dựng một nền giáo dục của nước Việt Nam độc lập. Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh được hình thành từ quá trình hoạt động cách mạng của Người. Ngay trong những câu thơ trong tập “Nhật ký trong tù” khi đang bị giam cầm hay những lời căn dặn, phát biểu khi gặp mặt các thầy cô giáo, học sinh, sinh viên của nước nhà, quan điểm giáo dục khoa học, tiến bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thể hiện khá rõ. Ở bài “Nửa đêm”, Người nhấn mạnh đến vai trò chủ đạo của giáo dục tới việc hình thành nhân cách của con người là: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, trong lời kêu gọi Thi đua ái quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ phải diệt được ba thứ giặc, trong đó có “giặc dốt” - nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói, lạc hậu của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo chính quyền mới ban hành một loạt các sắc lệnh chống nạn mù chữ, đó là Sắc lệnh 17/SL thành lập nha bình dân học vụ, Sắc lệnh 19/SL quy định mọi làng phải có lớp học bình dân và Sắc lệnh 20/SL cưỡng bức học chữ quốc ngữ không mất tiền. Nhờ thế mà từ 95% dân số mù chữ (năm 1945), đến năm 1948 hơn 8 triệu đồng bào ta (chiếm 1/3 dân số) đã biết đọc, biết viết.

Như vậy, trong giai đoạn kháng chiến, kiến quốc, cả dân tộc ta đã tập trung vào ba nhiệm vụ trọng tâm là diệt “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc ngoại xâm”. Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người có trí tuệ, có tinh thần yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập dân tộc. Bác còn chỉ ra nhiệm vụ cơ bản nhất của nền giáo dục mới là đào tạo ra những người công dân hữu ích, một nền giáo dục sẽ làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của người học. Nhà nước quyết tâm phát triển một nền giáo dục đào tạo nên những con người sát với thực tiễn cuộc sống, sáng tạo, chủ động thích ứng với hoàn cảnh kháng chiến và kiến quốc. Trong thư gửi giáo viên, học sinh, cán bộ thanh niên và nhi đồng sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Bác đã nói: “Mỗi một cấp giáo dục cần nhận rõ nhiệm vụ của mình trong lúc này. Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà. Trung học thì cần bảo đảm cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế. Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe cho các cháu. Tôi cũng mong các gia đình hãy liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp nhà trường giáo dục và khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp ích nhân dân”(1). Đến với Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai (ngày 07-5-1958), Bác nói: “Đối với thanh niên trí thức như các cháu ở đây thì cần đặt lại câu hỏi: Học để làm gì? Học để phục vụ ai? Đó là hai câu hỏi cần phải trả lời dứt khoát, thì mới có phương hướng để sửa chữa khuyết điểm của mình” hay “Vì lợi ích mười năm trồng cây - Vì lợi ích trăm năm trồng người” (ngày 13-9-1958). Những lời căn dặn trên cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trăn trở về sự nghiệp trồng người của nước nhà và dành sự quan tâm đặc biệt đến ngành giáo dục qua các giai đoạn lịch sử. Người đã đề ra những quan điểm khoa học về đối tượng, nội dung, phương pháp giáo dục một cách giản dị, dễ hiểu mà sâu sắc. Xuyên suốt triết lý giáo dục Hồ Chí Minh là một nền giáo dục toàn diện, thiết thực, đào tạo những con người bản lĩnh, sáng tạo, làm chủ trong mọi hoàn cảnh để làm cách mạng thắng lợi, để nước ta có thể “sánh vai với các cường quốc năm châu”.

Trên nền tảng triết lý giáo dục của Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn chú trọng bổ sung, phát triển cho phù hợp với yêu cầu của các giai đoạn lịch sử. Triết lý giáo dục Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ của cách mạng Việt Nam luôn gắn bó với nhau. Quan điểm của Đảng xuyên suốt thời kỳ đổi mới cho đến nay là: giáo dục là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển; sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của toàn dân. Trong các văn kiện của Đảng, từ Đại hội VI đến Đại hội VIII, Đảng ta khẳng định “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII (1996), Đảng ta đã xác định mục tiêu cơ bản và nhiệm vụ của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, có tri thức, kỹ năng, vừa hồng vừa chuyên; giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa; thực sự xem giáo dục là quốc sách hàng đầu; giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, Nhà nước và toàn dân; phát triển giáo dục đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Đại hội lần thứ IX, Đảng ta tái khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; thực hiện giáo dục cho mọi người, học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội. Thuật ngữ “xã hội hóa”, “xã hội học tập” mới ra đời nhưng bản chất tư tưởng “giáo dục cho mọi người, mọi người vì giáo dục” đã có trong tư tưởng Hồ Chí Minh từ sau Cách mạng Tháng Tám. Đến Đại hội lần thứ X năm 2006, Đảng ta quyết định: “đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”. Để thực hiện mục tiêu nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại năm 2020, tại Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định triết lý giáo dục theo đường lối đổi mới. Tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, Đảng ta đã thông qua Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Công cuộc đổi mới gần 30 năm nay đã đưa nền giáo dục nước ta bước sang giai đoạn mới, đạt được những thành tựu nhất định, góp phần tích cực cho công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Đó chính là kết quả của việc thực hiện triết lý giáo dục của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh.

Sự lãnh đạo của Đảng đối với giáo dục trong tình hình mới

Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về định hướng Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000, trong điều kiện đất nước có nhiều khó khăn, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt những thành tựu rất có ý nghĩa. Tuy nhiên đến nay, so với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và phát triển bền vững, giáo dục và đào tạo nước ta còn nhiều yếu kém, bất cập. Giáo dục vẫn chưa thực sự là quốc sách hàng đầu, chưa được ưu tiên cao trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chưa được coi là nhân tố quyết định của phát triển đất nước. Nhiều hạn chế, yếu kém của giáo dục và đào tạo đã được nêu ra từ Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII song chậm được khắc phục, có mặt còn nặng nề hơn. Khoa học giáo dục còn lạc hậu; chất lượng giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, chưa tạo ra lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ về nhân lực của nước ta so với các nước trong khu vực và trên thế giới, chưa tích cực chủ động góp phần vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc. Quản lý giáo dục còn nhiều bất cập, kinh phí đầu tư cho giáo dục còn hạn chế; thiếu dự báo nhu cầu nhân lực cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhu cầu học tập của nhân dân để làm cơ sở cho công tác quy hoạch phát triển giáo dục.

Trước yêu cầu mới, Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã thảo luận và quyết định ra Nghị quyết về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Theo đó, triết lý giáo dục - cơ sở lý luận, định hướng cho mọi hoạt động của một nền giáo dục, đã được Đảng ta bổ sung và phát triển phù hợp với yêu cầu thời đại. Đảng ta xác định đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới tư duy về giáo dục, đổi mới từ nền tảng quy định bản chất giáo dục (triết lý giáo dục) mà trước tiên là mục tiêu giáo dục. Mục tiêu giáo dục là dạy và học làm người, đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, năng lực thẩm mỹ, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; kết hợp hài hòa sự phát triển của cá nhân với sứ mệnh đào tạo nhân lực phục vụ xã hội. Tiếp đó là đổi mới toàn diện hệ thống tổ chức, loại hình giáo dục và đào tạo; nội dung, phương pháp dạy và học; cơ chế quản lý; xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ; cơ sở vật chất, nguồn lực và các điều kiện bảo đảm khác, đồng bộ ở tất cả các bậc học (giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, đào tạo nghề). Đảng ta cũng xác định rõ tính chất nguyên lý giáo dục: Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Những mục tiêu và nguyên lý đó phải có tính nhất quán, thống nhất, có hệ thống; được thực hiện và triển khai, quán triệt nghiêm túc thông qua các chương trình, hoạt động giáo dục cụ thể ở các cấp và trong xã hội. Cùng với việc thực hiện các mục tiêu, nguyên lý đó phải có những chế tài đủ mạnh để bảo đảm dân chủ, công bằng, xây dựng một nền giáo dục trong sạch và lành mạnh. Bên cạnh đó, đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, có tầm nhìn dài hạn, các giải pháp đồng bộ, khả thi, có cơ sở khoa học. Đổi mới căn bản và toàn diện cần vừa củng cố phát huy các thành tựu và điển hình đổi mới, vừa kiên quyết chấn chỉnh những lệch lạc, những việc làm trái quy luật; khắc phục cơ bản các yếu kém kéo dài đang gây bức xúc; phát triển những nhân tố tích cực mới; đổi mới có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình phù hợp với thực tế đất nước, địa phương.

Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa đã làm biến đổi thế giới nhanh chóng và đặt nước ta đứng trước nhiều cơ hội cũng như thách thức, nguy cơ. Do đó, giáo dục đào tạo càng đóng vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Những hạn chế, thách thức của giáo dục phải được nhận thức sâu sắc, có giải pháp hữu hiệu và lộ trình để khắc phục, vượt qua, đưa sự nghiệp giáo dục lên tầm cao mới. Để có thể khẳng định được vị trí và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giáo dục, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xác định một số giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo như sau:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với đổi mới giáo dục và đào tạo; quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo trong hệ thống chính trị, ngành giáo dục và đào tạo và toàn xã hội; đổi mới công tác thông tin và truyền thông để thống nhất về nhận thức, tạo sự đồng thuận và huy động sự tham gia đánh giá, giám sát và phản biện của toàn xã hội đối với công cuộc đổi mới, phát triển giáo dục.

Thứ hai, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề; đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn; đổi mới và đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học.

Thứ ba, đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan, theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận.

Thứ tư, hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập; khuyến khích xã hội hóa để đầu tư xây dựng và phát triển các trường chất lượng cao ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo, tăng tỷ lệ trường ngoài công lập đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học; hướng tới có loại hình cơ sở giáo dục do cộng đồng đầu tư; đa dạng hóa các phương thức đào tạo; có cơ chế để tổ chức, cá nhân người sử dụng lao động tham gia xây dựng, điều chỉnh, thực hiện chương trình đào tạo và đánh giá năng lực người học.

Thứ năm, đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng.

Thứ sáu, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo; phát triển hệ thống trường sư phạm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức và năng lực nghề nghiệp; có chế độ ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.

Thứ bảy, đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo.

Thứ tám, nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý.

Thứ chín, chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa và thành tựu khoa học, công nghệ của nhân loại; góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới giáo dục./.

-------------------------------

(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 80,81

Vũ HằngĐại học Xây dựng Hà Nội


Hòa hiếu, khoan dung Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh
13:42' 15/10/2013
TCCSĐT - Hồ Chí Minh kế thừa, phát huy truyền thống giao lưu, hòa hiếu, khoan dung Việt Nam theo lập trường duy vật biện chứng, trên cơ sở đó, đã xây dựng quan điểm mới về giao lưu, hòa hiếu, khoan dung.

Truyền thống giao lưu, hòa hiếu và khoan dung
Truyền thống văn hóa Việt Nam là một hệ những giá trị, phương pháp có tính bền vững, được hình thành, chắt lọc trong hàng nghìn năm lịch sử dựng nước, đặc biệt trong sự nghiệp giữ nước, bảo vệ nền độc lập dân tộc, chống mọi áp lực đồng hóa văn hóa, để bảo tồn, phát triển nền văn hiến Việt Nam. Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, nổi bật là các giá trị: nếp sống khoan hòa, thiên về hành động với tư duy trực giác tổng hợp; lòng nhân ái (thương nòi), lối ứng xử linh hoạt, ý chí và nghị lực yêu nước, tự lập, tự cường, đoàn kết đồng bào, dân tộc,... Tất cả các giá trị này tạo nên chủ nghĩa yêu nước bền vững ở mỗi người Việt Nam.
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, sở dĩ có tính nồng nàn, thiết tha và bất khuất là do được hun đúc bởi nếp sống khoan hòa, lòng nhân ái, lối ứng xử cân bằng, linh hoạt, tinh thần, nghị lực yêu nước, tự lập, tự cường, đoàn kết đồng bào và dân tộc, đặc biệt, trong sự nghiệp giữ nước trước nạn ngoại xâm và nạn đồng hóa văn hóa. Tinh thần yêu nước hay tinh thần dân tộc không phải là một giá trị độc lập mà thẩm thấu vào các giá trị trên đây. Chủ nghĩa yêu nước là tổng hợp của các giá trị, như:
Nếp sống khoan hòa thiên về hành động với tư duy trực giác tổng hợp
Nghề trồng lúa nước buộc con người phải sống phụ thuộc, giao hòa với đất, với nước theo thời tiết thiên nhiên. Văn hóa lúa nước với tính cách là điển hình của văn hóa sản xuất vật chất ở Việt Nam, đã cơ bản tạo dựng văn hóa làng Việt Nam. Phức hợp văn hóa lúa nước - văn hóa làng đã được định hình trong lịch sử, thông qua thế quân bình năng động đối với tự nhiên, đặc biệt mỗi khi bị thiên tai. Từ chỗ ứng xử chênh với tự nhiên đi đến thế ứng xử hòa điệu với tự nhiên ở miền đất thấp, miền đồng bằng châu thổ, theo khí hậu, theo nhịp mùa đi, theo địa hình cao thấp, theo điều kiện đất đai thổ nhưỡng phì nhiêu hay chua mặn... Trong sản xuất nông nghiệp, trong cách ăn, ở, mặc... người Việt Nam đều thể hiện sự thích nghi, hòa hợp với tự nhiên(1).
Học tập, tôn trọng, chinh phục, mô phỏng, thích nghi là những cách thức ứng xử theo hướng khoan hòa với tự nhiên. Từ đó, hình thành nên nếp sống khoan hòa, thuần hậu không chỉ với tự nhiên, mà với xã hội, với bản thân. Nếp sống khoan hòa được thể hiện, thực hiện từ cách sống hòa thuận trong gia đình, láng giềng,... đến hòa hiếu với lân bang. Chính nếp sống này đã thúc đẩy hình thành phương pháp tư duy trực giác tổng hợp cảm tính và kinh nghiệm. Tổng hợp gắn với trừu tượng hóa và tư duy biện chứng chất phác. Nếp sống đó không quan tâm nhiều đến các yếu tố riêng rẽ, như nước, phân, cần, giống mà quan tâm đến những mối quan hệ giữa chúng. Trừu tượng hóa để đi thẳng vào cái trọng tâm, trọng điểm, cái bức xúc; tư duy biện chứng, nhằm vào tính vận động của các mối quan hệ. Nếp sống khoan hòa, thiên về hành động với lối tư duy trực giác, tổng hợp có nhân tố biện chứng là một giá trị truyền thống rất cơ bản hình thành phương pháp tư tưởng Hồ Chí Minh.
Lòng nhân ái Việt Nam, được thể hiện và thực hiện theo các nguyên tắc trọng tình, trọng đức, trọng văn và trọng nữ. Nếp sống khoan hòa trong làng với tính cách là một cộng đồng xã hội tuy đã có lệ làng (văn hóa pháp lý), nâng lên thành nguyên tắc trọng đức, trọng văn, và mở rộng ra là nguyên tắc trọng phụ nữ.
Nguyên tắc trọng đức ở Việt Nam hướng vào những giá trị nền tảng có tính bền vững của đức là luân lý. Và vì thế, nó dễ dàng tiếp thu đạo ngũ thường, luân thường của Nho giáo Trung Quốc. Tình nghĩa trong quan hệ người - người, và lối ứng xử tình nghĩa trong dân gian, được Nguyễn Trãi, theo nguyên tắc trọng văn, nâng lên thành lối ứng xử nhân nghĩa, để tình người hòa với đạo trời, hay tình người hòa với phép tắc chung của xã hội. Nhân nghĩa Việt Nam có bản sắc riêng, bền vững, gắn với nguyên tắc trọng phụ nữ. Nguyên tắc này được thể hiện, thực hiện nhất quán từ gia đình đến tín ngưỡng mẫu hệ và cả Bộ luật Hồng Đức dưới triều Lê.
Nếp sống khoan hòa thiên về hành động, với lối tư duy trực giác tổng hợp có tính biện chứng được thể hiện trong tình nghĩa đối với con người theo các nguyên tắc trọng tình, trọng đức, trọng nữ bằng triết lý nhân nghĩa. Nó đã thúc đẩy hình thành lối ứng xử nhân văn, tập thể và dân chủ.
Lối ứng xử cân bằng linh hoạt
Nếp sống khoan hòa thiên về hành động chú trọng đến mối quan hệ đang vận động, nhất là những cái trọng tâm, trọng điểm, bức xúc, nên cũng dễ dẫn đến cách ứng xử, hành động linh hoạt, thậm chí biến báo cho thích hợp với từng hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Do đó, nếp sống khoan hòa thường được biểu hiện ở lối ứng xử quân bình, nhưng cũng thường biến thái ở dạng tùy tiện, mềm dẻo.
Thói tùy tiện với tính cách là biểu hiện tiêu cực của lối ứng xử linh hoạt; còn tính mềm dẻo, nhìn chung là biểu hiện tích cực của nó. Song cả hai biểu hiện linh hoạt đó nhìn chung đều diễn ra trong khuôn khổ lối ứng xử bình quân không thái quá. Chúng là điểm nhấn của lối ứng xử quân bình linh hoạt, theo cả hai chiều tiêu cực, tích cực. Chúng đều là kết quả của lối tư duy trực giác tổng hợp có tính biện chứng, dẫn đến các tiếp nhận, thâu thái theo kiểu dung hợp và cả tổng hợp theo hướng tích hợp. Lối ứng xử cân bằng, linh hoạt và lối tư duy trực giác tổng hợp có tính biện chứng được Hồ Chí Minh kế thừa có chọn lọc, để tạo nên phương pháp tư tưởng của Người.
Ý chí, nghị lực yêu nước, tự lập, tự cường, đoàn kết đồng bào, dân tộc và hòa hiếu với lân bang
Nhiều nhà nghiên cứu thường có xu hướng nhấn mạnh một chiều, có phần thái quá về sự khép kín của làng (xã) tiểu nông. Song nếu chỉ nhìn thấy tính tự cấp tự túc về kinh tế, sự đóng kín về văn hóa, sự vây bọc đơn vị tụ cư bởi lũy tre làng,... thì rất khó giải thích được vì sao người nông dân Việt Nam lại có ý thức, hành động yêu nước mãnh liệt, trường kỳ như vậy? Những ý niệm làng - nước, đồng bào, quốc gia... giải thích cho việc hơn 60 huyện, thành đồng thanh tương ứng khi Hai Bà Trưng “phất cờ nương tử”; và khi Bà Triệu cưỡi voi gióng trống thì “toàn thể Giao Châu chấn động”(2). Ý chí, nghị lực giao lưu, đoàn kết đồng bào dân tộc của các làng tiểu nông xuất phát từ sự liên kết giữa các làng, các vùng trong việc trị thủy, chống thiên tai, chống ngoại xâm. Nói cách khác, đặc điểm cơ bản của văn hóa làng Việt Nam là tính lưỡng diện giữa khuynh hướng cá thể, biệt lập với khuynh hướng giao lưu, đoàn kết đồng bào, dân tộc. Khi mà kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc còn chi phối thì khuynh hướng cá thể, biệt lập, khép kín chiếm địa vị chủ đạo, còn khuynh hướng đoàn kết đồng bào, dân tộc trở thành phụ và thứ yếu. Nhưng cái khuynh hướng phụ, thứ yếu này có lúc, có nơi sẽ trở thành chủ đạo khi phải hiệp tác chống thiên tai, trị thủy, chống ngoại xâm và nạn đồng hóa văn hóa. Ở Hồ Chí Minh, ý chí, nghị lực yêu nước, tự lập, tự cường, đoàn kết đồng bào, dân tộc, hòa hiếu với lân bang là một đặc điểm chủ đạo tạo nên phương pháp tư tưởng Hồ Chí Minh.
Còn có thể kể thêm một số giá trị khác trong giá trị truyền thống văn hóa Việt Nam, góp phần hình thành, định hình, phát triển phương pháp tư tưởng Hồ Chí Minh về hòa bình hữu nghị giữa các dân tộc. Tư tưởng đó được hình thành chính từ sự tổng hợp - tích hợp của các giá trị văn hóa truyền thống. Nó là “cái bất biến” để tiếp xúc, thâu thái, tổng hợp - tích hợp “cái vạn biến” của văn hóa Đông, Tây trong phương pháp tư tưởng của Người về hòa bình, hữu nghị giữa các dân tộc.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về hòa hiếu, khoan dung văn hóa
Tư tưởng hòa hiếu, khoan dung cổ truyền không mang nặng tính chất kinh viện, không phải là một nguyên lý nhất thành bất biến, buộc mọi người phải tuân theo bất chấp thời gian và không gian. Văn hóa khoan dung cổ truyền vừa có ý nghĩa thực tiễn vừa có ý nghĩa phát triển. Thông qua việc thực hành đạo đức và ứng xử mà phát triển tư tưởng, đạo đức khoan dung. Việc kế thừa và phát huy truyền thống này đặc biệt được thể hiện ở Hồ Chí Minh. Cũng như nhân dân lao động từ bao đời nay, Hồ Chí Minh ít phân tích, không đề xướng thành hệ thống lý thuyết và cũng không tranh cãi lý luận. Người rất quan tâm đến những người thật, việc thật, người tốt, việc tốt trong cuộc sống thường nhật. Từ đó, Người đề cao những ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa phát triển của truyền thống tư tưởng hòa hiếu và khoan dung. Bản thân Hồ Chí Minh đã thực hành và nêu gương sáng về tư tưởng và hành vi ứng xử hòa hiếu, khoan dung. Thông qua đó, Hồ Chí Minh đã trực tiếp góp phần cùng mọi người phát triển tư tưởng hòa hiếu, khoan dung Việt Nam trong thực tế cuộc sống.
Trong truyền thống tư tưởng hòa hiếu, khoan dung của dân tộc, bản chất nhân văn thể hiện ngay trong ý thức, tình cảm cộng đồng tình nghĩa, và thể hiện ngay trong nguyên tắc ứng xử thấu tình đạt lý kể cả với tù binh, với quân xâm lược. Tiếp thu bản chất nhân văn của truyền thống dân tộc và nhân loại, Hồ Chí Minh trước hết đề cao khái niệm độc lập, tự do với tính cách là cái “bất biến” để “ứng vạn biến” trong hòa hiếu và khoan dung.
Trước thời kỳ trung đại, khái niệm độc lập dân tộc đã được Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi đúc kết thành tuyên ngôn có tính độc lập. Tuy vậy, ý niệm tự do chưa có giá trị nhận thức một cách tự giác và có tính hệ thống về phương diện triết học cũng như trong thực tiễn xã hội. Đến Hồ Chí Minh, có thể nói, khái niệm tự do được đề cập đến trước hết không phải từ khía cạnh lý tưởng thẩm mỹ, cá tính cá nhân, mà từ khía cạnh nhân cách lịch sử, độc lập dân tộc. Tự do thuộc loại thuật ngữ có tần số xuất hiện cao nhất trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh.
Khái niệm tự do theo Hồ Chí Minh, trước tiên và chủ yếu, bao hàm ý nghĩa độc lập dân tộc, vì trong bối cảnh thế kỷ XX, độc lập là yêu cầu tự do cho những cộng đồng dân tộc bị thế lực ngoại xâm thống trị. Khát vọng ấy đã bừng sáng trong tâm hồn Hồ Chí Minh từ thuở thanh niên. Tinh thần yêu nước, tình cảm mặn mà đối với thiên nhiên, khát vọng công lý là nền tảng chắp cánh cho lý tưởng tự do.
Ở Hồ Chí Minh, khái niệm tự do đồng nghĩa với quyền con người và quyền của dân tộc, của nhân loại được sống độc lập và hạnh phúc. Tự do cho dân tộc là lý tưởng chính trị và đạo đức của Hồ Chí Minh. Và khi Việt Nam đã trở thành một dân tộc tự do thì vấn đề quan tâm hàng đầu của Người là thực hiện dân sinh, dân trí, phát triển kinh tế và văn hóa, khoa học để từng bước con người Việt Nam có thể được hưởng thụ mọi quyền lợi vật chất, tinh thần chân chính của con người, tức là hưởng thụ quyền tự do chân chính của con người. Khái niệm tự do với những hàm nghĩa độc lập, hạnh phúc của dân tộc và của mỗi người không loại trừ, mà còn mở đường cho dân chủ, dân quyền, cho sự giải phóng cá nhân và xây dựng nhân cách mới trên đất nước Việt Nam.
Ở Hồ Chí Minh, tự do không chỉ là một phạm trù triết học, tư tưởng, mà còn là một yêu cầu đạo đức, tội ác lớn nhất là chống lại tự do của con người; hành vi đạo đức cao đẹp nhất là chiến đấu cho tự do của dân tộc, tự do của mỗi người và tự do của nhân loại. Như vậy, với việc mở rộng lòng nhân ái từ mối tương quan cá nhân, tương quan dân tộc đến tương quan đồng loại bị áp bức, Hồ Chí Minh đã đặt ra vấn đề thực hiện tự do cho con người, dân tộc và nhân loại như là yêu cầu cao nhất của đạo đức, của chủ nghĩa nhân văn. Đây là điểm mới căn bản mà khoan dung Việt Nam - Hồ Chí Minh đã đóng góp vào bản chất nhân văn vốn thấm đầy ý thức, tình cảm và tâm lý cộng đồng tình nghĩa của dân tộc.
Điểm mới trên đồng thời cũng góp phần chuyển đổi tư tưởng hòa hiếu, khoan dung truyền thống từ đặc điểm “thấu tình đạt lý” sang đặc trưng “có lý có tình”. Về mặt lý trí, cũng như các dân tộc Á Đông khác, người Việt thiên về tư duy trực giác - tổng hợp. Sự tiếp cận ngoại vật kết hợp với sự tổng hợp theo kiểu trực quan cảm tính có thể cho người ta thấy ngay cái đúng, cái sai, cái hợp lý và không hợp lý, cái thuận tình và cái không thỏa đáng. Lại thêm việc phát huy kinh nghiệm sống ở mỗi người, cho nên người Việt Nam có nhiều khả năng phản ứng nhanh nhạy với các biến cố, để đề ra những phương cách ứng xử thích hợp, hợp lý.
Một điểm mới mà tư tưởng hòa hiếu, khoan dung Việt Nam - Hồ Chí Minh đóng góp một cách xứng đáng vào văn hóa khoan dung truyền thống là đã kiến lập được mối giao hòa khăng khít giữa lương tâm con người, lương tri dân tộc với lương tri thời đại, đặc biệt đã huy động được sự đồng tâm nhất trí của lương tri thời đại và lương tri dân tộc. Giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa và đổi mới là bằng chứng cho sự hòa hợp giữa lương tri cá nhân với lương tri dân tộc và lương tri thời đại. Phong trào đoàn kết với Việt Nam chống Mỹ phát triển sâu rộng khắp hành tinh, đặc biệt trong những năm 60, 70 của thế kỷ XX, là bằng chứng khách quan cho sự hòa hợp đó. Nhiều người thuộc đủ các màu da, tín ngưỡng, chính kiến đã coi Việt Nam là lương tri thời đại.
Ở đây cần nhấn mạnh là lương tri Việt Nam - Hồ Chí Minh bắt rễ sâu vào lương tri truyền thống tốt đẹp của dân tộc, song lại rất hòa đồng với lương tri thời đại. Cơ sở cho sự hòa nhập giữa lương tri Việt Nam - Hồ Chí Minh với lương tri thời đại không có gì trái với những quyền được sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc cho mỗi người và cho dân tộc.
Như vậy, bằng việc đề cao lương tâm con người, lương tri dân tộc và thời đại, tư tưởng hòa hiếu khoan dung Việt Nam - Hồ Chí Minh đã đánh thức và phát huy khả năng tự kiểm tra đạo đức, tự đánh giá hành động trên cơ sở nhận thức, tình cảm, tâm lý con người đối với bổn phận và nghĩa vụ của mình. Hơn thế, nó còn thúc giục con người tự giác phục vụ cộng đồng dân tộc và nhân loại tiến bộ vì sự phát triển.
Đặc điểm nổi bật của tư tưởng hòa hiếu khoan dung Việt Nam - Hồ Chí Minh là đã biết đánh thức và biết phát huy lương tâm như là sự tổng hòa của nhận thức triết học và tư tưởng, của đạo đức và cảm xúc tình cảm trên cả hai cấp độ cá nhân con người và cộng đồng dân tộc. Nhờ thế, nó khích lệ sự vị tha, tinh thần tự khoan dung ở bản chất nhân bản. Nghĩa là nó hướng vào sự tự giác khoan dung không có tính vụ lợi, dù là nhỏ đến đâu và dưới khía cạnh nào chăng nữa.
Nhờ sự hòa hợp giữa lương tri cá nhân, lương tri dân tộc với lương tri thời đại mà tư tưởng hòa hiếu, khoan dung Việt Nam - Hồ Chí Minh đã tiếp biến chủ nghĩa nhân văn cổ truyền vốn nặng sắc thái tình cảm để từng bước xây dựng chủ nghĩa nhân văn mới trên cơ sở mối quan hệ duy vật biện chứng về lương tri con người, dân tộc và thời đại. Nhân ái là cần thiết nhưng không thể bao trùm và không đủ sức mạnh cùng sự tỉnh táo cần thiết để khoan hòa, đoàn kết một thế giới còn có nhiều bất đồng, mâu thuẫn, xung đột. Cho nên chủ nghĩa nhân văn cần được kiến thiết trên cơ sở lương tri con người, dân tộc và thời đại. Hòa hiếu, khoan dung, mà hạt nhân là chủ nghĩa nhân văn, được lương tri thúc đẩy và dẫn dắt, tất nhiên là sự khoan dung nhân bản, không nhất thời và không vụ lợi.
Tư tưởng hòa hiếu, khoan dung Việt Nam - Hồ Chí Minh đã tiếp biến tinh hoa truyền thống và tinh hoa Đông - Tây, kim cổ để tích hợp, phát triển không ngừng trong quá trình vận động và phát triển của lịch sử đất nước trong hơn nửa thế kỷ qua. Cái gốc của tư tưởng hòa hiếu, khoan dung Việt Nam - Hồ Chí Minh tất nhiên là truyền thống lịch sử văn hóa của đất nước, mà hạt nhân của nó là truyền thống yêu người, yêu nước. Phương hướng tiếp biến, tích hợp và phát triển văn hóa khoan dung của nhân loại đã được Hồ Chí Minh tổng kết: Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo của Jésus có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Jésus, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này, nếu họp họ lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy(3).
Trong tu dưỡng bản thân và thực tế hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đã vận dụng nhiều hệ tư tưởng khác nhau theo phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác trong nhận thức và hành vi đạo đức. Không một lĩnh vực nào phương pháp tư duy và phương pháp làm việc của Hồ Chí Minh đi chệch lý luận và phương pháp luận duy vật biện chứng mác-xít. Có thể nói, chính là xuất phát từ lý luận và phương pháp luận đó mà Hồ Chí Minh tránh được sự giáo điều trong nhận thức và hành vi đạo đức. Hơn thế, Người đã tiếp biến được tinh hoa tư tưởng, đạo đức của Đông - Tây, kim cổ phù hợp với yêu cầu nhận thức và thực tiễn của dân tộc và thời đại. Các trào lưu tư tưởng và đạo đức khác nhau đó “sống chung với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết” là nhờ sự tiếp biến tinh hoa theo phương pháp biện chứng ở Hồ Chí Minh. Điều này chứng tỏ sự tích hợp tư tưởng, đạo đức không dừng lại ở mức hỗn dung, cộng sinh mà đã trở thành một hệ thống phát triển. Nghĩa là toàn bộ tinh hoa tư tưởng, đạo đức nhân loại được hội tụ trong chủ thể sáng tạo Hồ Chí Minh và Việt Nam, đã trở thành một thực thể sống động, không ngừng phát triển trên cơ sở của chính nó.
Nhờ nhận thức được phương pháp luận đúng đắn; và coi lương tri với tư cách là hạt nhân thúc đẩy nuôi dưỡng tư tưởng hòa hiếu, khoan dung không nhất thời và không vụ lợi, nên tư tưởng hòa hiếu, khoan dung Việt Nam - Hồ Chí Minh hạn chế được những cái gọi là “đạo đức tình thế”, “khoan dung tình thế”, để hướng vào nền văn hóa hòa hiếu, khoan dung nhân bản bền vững, lâu dài. Chữ TÍN trong tư tưởng hòa hiếu, khoan dung nói riêng, trong danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh nói chung, được xây dựng và được thực hành trên cơ sở “phương pháp làm việc biện chứng” của chủ nghĩa Mác./.
-----------------------------------------------
(1) Huỳnh Khái Vinh, Nguyễn Thanh Tuấn: Bàn về khoan dung trong văn hóa, Nxb, CTQG, tái bản có sửa chữa, bổ sung, H. 2004, tr.205-208.
(2) Huỳnh Khái Vinh, Nguyễn Thanh Tuấn: Chấn hưng các vùng và tiểu vùng văn hóa ở nước ta hiện nay, Nxb. CTQG, H. 1995, tr.14-15.
(3) Trần Dân Tiên: Hồ Chí Minh truyện, Trương Niệm Thức dịch, Bát Nguyệt xuất bản xã, Thượng Hải, 1949, tr.49, tiếng Trung.
PGS, TS. Nguyễn Thanh TuấnHọc viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh



Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người
23:25' 21/1/2014
TCCSĐT - Hồ Chí Minh - Lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi và phong phú, hết lòng vì nước, vì dân của mình, Người đã để lại cho chúng ta một di sản hết sức quý báu. Đó là tư tưởng của Người.


Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và của dân tộc ta, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt nam trong suốt hơn tám thập kỷ qua và hiện nay đang tiếp tục soi đường cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới. Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về quyền con người có nội dung rất phong phú, rất cụ thể và sâu sắc. Có thể khẳng định, ở nước ta Hồ Chí Minh là người đầu tiên đề cập tới khái niệm nhân quyền và là người đã đặt nền móng lý luận và thực tiễn bằng việc khẳng định quyền con người gắn liền với quyền dân tộc, với độc lập chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Người đã chỉ ra rằng, quyền con người chỉ có thể có được thông qua con đường đấu tranh cách mạng chống áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ có như vậy thì các quyền cá nhân và quyền dân tộc mới được bảo đảm bền vững.

Trên con đường gian nan Người tìm ra chân lý


Quyền con người là một trong những vấn đề có lịch sử lâu đời về cả phương diện thực tiễn cũng như lý luận. Đó luôn là mối quan tâm của nhân loại. Mỗi thời kỳ phát triển của quyền con người đều gắn liền với thành quả của cuộc đấu tranh giai cấp, các cuộc cách mạng - xã hội. Điều đó, phản ảnh quá trình nhân loại tự giải phóng mình, do vậy vấn đề này bao giờ cũng là điểm nóng của cuộc đấu tranh giai cấp, đặc biệt trên lĩnh vực đấu tranh tư tưởng.

Song, do những giới hạn lịch sử khách quan, các giai cấp thống trị ở mỗi thời kỳ chỉ có thể đáp ứng và bảo đảm quyền con người ở một mức độ, một nấc thang nhất định. Sự phát triển của lịch sử đã cho thấy sức mạnh vô địch của nhu cầu về quyền và tự do của con người. Quyền con người có nội dung rất phong phú, có tính chất nhạy cảm, phức tạp và càng phức tạp hơn khi nó gắn với các chế độ chính trị khác nhau, bởi vậy thường có những quan điểm khác nhau thậm chí đối lập nhau, do cách tiếp cận khác nhau.

Hồ Chí Minh tiếp cận với quyền con người hoàn toàn khác với các luận điểm của cá học giả ở phương Tây. Xuất phát từ thực tiễn và truyền thống của dân tộc Việt Nam đã thôi thúc Người đi tìm chân lý. Người đã kế thừa những nội dung hợp lý của tư tưởng nhân quyền trước đó, để đưa ra những luận điểm mới mẻ sâu sắc và toàn diện về quyền con người, phù hợp đặc điểm của thời đại mới và tình hình cụ thể ở Việt Nam. Từ đặc điểm của dân tộc đang bị mất nước, bị bóc lột nặng nề dưới chế độ đế quốc thực dân và bọn địa chủ phong kiến tay sai, mọi quyền sống của con người cũng như quyền dân tộc đều không có. Vì vậy, để giải quyết vấn đề nhân quyền hay còn gọi là quyền con người ở Việt Nam chỉ có thể được giải quyết thông qua cuộc cách mạng để giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam. Đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược là mâu thuẫn chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt ra, cần được giải quyết, có giải quyết được yêu cầu này thì quyền con người mới được bảo đảm.

Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người bắt nguồn sâu xa từ lịch sử dân tộc và thực tiễn của đất nước, kế thừa có chọn lọc những tư tưởng nhân quyền tiến bộ của các nước phương Đông cũng như các nước phương Tây. Đặc biệt là vận dụng có sáng tạo tư tưởng giải phóng con người và xã hội của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đây là đặc điểm nổi bật trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhân quyền.

Kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình, quê hương, đất nước, ngay từ nhỏ Người đã có hoài bão lớn gắn trách nhiệm của mình với vận mệnh của đất nước “Khi tôi 13 tuổi, tôi đã từng lần đầu tiên nghe nói về tự do, bình đẳng và bác ái... Tôi muốn tự mình làm quen với văn hóa Pháp, để tìm hiểu điều gì ẩn sau những khái niệm này” để về giúp đồng bào mình. Đây là một trong những động lực đầu tiên thúc đẩy Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Người đã thâm nhập trực tiếp vào các nước phương Tây để kiểm nghiệm giá trị “tự do, bình đẳng, bác ái”, tìm hiểu ngọn nguồn, bản chất của chế độ thực dân đế quốc và cũng là để học hỏi tinh hoa thế giới để về giúp đồng bào. Đó là một đột phá mới trong tư duy chính trị lúc bấy giờ.

Với ý chí kiên cường, trải qua biết bao thử thách của thực tiễn cuộc sống, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã củng cố vững chắc lý tưởng độc lập, tự do của mình. Trong những năm tìm đường cứu nước, Người đã dành nhiều thời gian để khảo sát thực tế, tìm hiểu “tự do, bình đẳng, bác ái” được thực thi các nước “mẫu quốc” tại các thuộc địa như thế nào. Người đã đi vào sào huyệt của chủ nghĩa thực dân để xem cái “hào nhoáng” của những nền “văn minh với sứ mệnh khai hóa”. Người đã dày công nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản và các nhà tư tưởng tiến bộ khác đồng thời đã tìm thấy ở Tuyên ngôn Nhân quyền, Dân quyền của cách mạng Pháp (1789) và Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776) những “quyền bất khả xâm phạm” của con người. Đây chính là cơ sở quan trọng để Hồ Chí Minh khẳng định chân lý, dân tộc Việt Nam cũng phải được hưởng những “quyền bất khả xâm phạm” đó. Năm 1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, Người gửi “Bản yêu sách của dân tộc Việt Nam gửi đến Hội nghị Véc-xay (Versailles, Pháp). “Bản yêu sách” gồm 8 điểm rất ôn hòa, yêu cầu Chính phủ Pháp trao trả một số quyền tự do, dân chủ cơ bản tối thiểu và cơ bản cho nhân dân Việt Nam, cũng như các dân tộc ở Đông Dương… Nhưng tất cả những yêu sách ôn hòa đó của Nguyễn Ái Quốc đều không được Chính phủ Pháp, cũng như các nước tham gia Hội nghị Versailles quan tâm. Thực tế đó, giúp Người ngày càng nhận rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc và rút ra kết luận quan trọng rằng: muốn được giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân mình và phải thông qua cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ. Đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là tiền đề, là điều kiện giành lấy và thực hiện quyền của con người. Đây là một vấn đề mới về lý luận và chính trị trong thời đại ngày nay.

Nét đặc sắc trong tư tưởng của Người về nhân quyền

Xuất phát từ thực tiễn và truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tiếp thu và kế thừa những nội dung hợp lý của tư tưởng tiến bộ về nhân quyền, tư tưởng của  Hồ Chí Minh không hề xa lạ và không đoạn tuyệt với những thành tựu văn minh tiến bộ của nhân loại, nhưng có sự vận dụng, phát triển sáng tạo của các tư tưởng đó. Người đã đưa ra những luận điểm mới mẻ, sâu sắc và toàn diện về quyền con người, đây là đặc điểm quan trọng và nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người. Điều đó, được thể hiện trong các nội dung sau:

Một là, trong tư tưởng về nhân quyền ở nhiều nước phương Tây nêu ra, chủ yếu và cốt lõi của nó là đòi quyền tự do cho mỗi cá nhân. Điều này đúng nhưng chưa đủ trong thời kỳ phát triển mới. Bởi vì, thời kỳ này chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc xâm chiếm các thuộc địa, đặt ách thống trị bóc lột tàn bạo cho các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Vì vậy, quyền của mỗi người gắn chặt và không tách rời với quyền của dân tộc, do đó Hồ Chí Minh đã đấu tranh đòi nhân quyền cho cả dân tộc, quyền tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc. Không dừng lại ở đó, Người đã đòi quyền cho tất cả các dân tộc đang bị áp bức bóc lột trên thế giới. Đây là sự phát triển, khái quát cao đem lại những nội dung mới về nhân quyền - quyền con người trong tư tưởng của Hồ Chí Minh thời đại mới. Điều này đã được thể hiện rõ trong Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam do Người trực tiếp soạn thảo và công bố ngày 02-9-1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, Hồ Chí Minh khẳng định, một chân lý lớn của thời đại mới trong thế kỷ XX đó là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Đây là sự phát triển mới của Hồ Chí Minh và chính Người thừa nhận, suy rộng ra từ câu mở đầu bất hủ của Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc”. Từ sự khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng… có quyền được sống, quyền được tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc” , để đi đến khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Như vậy, từ những quyền cơ bản của con người được mở rộng thành quyền dân tộc, quyền con người trừu tượng thành quyền của người dân được sống trong độc lập, tự do, từ quyền dân tộc độc lập, được phát triển thành quyền độc lập của các dân tộc. Dựa trên cơ sở pháp lý về quyền “tự nhiên” đến chỗ khẳng định quyền đấu tranh “chống áp bức” của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc.

Hai là, Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa những giá trị phổ biến về nhân quyền trong lịch sử mà còn nâng những giá trị đó lên một tầm cao mới. Ở đây, Người không chỉ đấu tranh đòi quyền cho con người, mà Người còn nhấn mạnh tới quyền làm người. Bởi vì, quyền con người không chỉ cần ăn, mặc, ở, đi lại để tồn tại mà còn vươn lên trên cái tồn tại để hoàn thiện và phát triển bản thân. Đó chính là quyền học tập, sáng tạo, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền tự do, quyền dân sự, quyền về chính trị, kinh tế - văn hóa xã hội, cũng như quyền của các nhóm người đặc biệt trong xã hội như: quyền các dân tộc thiểu số, quyền phụ nữ, quyền của trẻ em, quyền của nhóm người có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn cần được xã hội quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ để họ hòa nhập với cộng đồng xã hội… Như vậy, có thể thấy nội dung quyền con người trong tư tưởng của Hồ Chí Minh được phát triển rất phong phú cả về bề rộng và chiều sâu, tạo ra một hệ thống về quyền con người theo quan điểm khoa học và cách mạng.

Ba là, cũng như các nội dung khác trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Người triệt để thực hiện giữa nói và làm, trở thành một nguyên tắc trong hành động của Hồ Chí Minh. Và chính Người đã nêu một tấm gương mẫu mực trong việc thực hiện triệt để nhất những tư tưởng đó còn hơn rất nhiều lần so với những điều Người nói và viết. Sự thống nhất giữa tư tưởng và hành vi, giữa lý luận và thực tiễn, giữa động cơ và hiệu quả đã trở thành đặc trưng nổi bật của Hồ Chí Minh so các nhà tư tưởng, các lãnh tụ khác. Người là tấm gương sáng, một pho sách trọn vẹn về nhân quyền và cuộc đấu tranh cho quyền con người. Người nói : “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có căm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Hồ Chí Minh khẳng định: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo là vì mục đích đó”. Điều đó cho thấy, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề con người và giải phóng con người, coi đó là mục đích cao nhất cần đạt tới trong mọi hoạt động cách mạng của mình. Người là một nhân vật hiếm có trong lịch sử nhân loại, một lãnh tụ lấy mong muốn của dân tộc làm ham muốn của mình, lấy nỗi lo của nhân dân làm động cơ, mục đích hoạt động thực tiễn.

Trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đã dồn hết tâm lực, trí tuệ để lãnh đạo nhân dân giành độc lập cho dân tộc, giành quyền làm chủ của con người, xây dựng, phát triển đất nước mang lại hạnh phúc và quyền làm người cho nhân dân, làm cho Việt Nam trở nên giàu mạnh, hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu.. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu của nước ta là: “1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có học hành”. Người luôn tâm niệm, Nhà nước được độc lập mà dân không được hưởng tự do, dân vẫn cứ chết đói, chết rét thì độc lập ấy chẳng có ý nghĩa gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên không bao giờ được quên “dân là chủ” với quan niệm trên, trong chế độ mới, giá trị cao nhất của độc lập dân tộc là đem lại quyền làm chủ thực sự cho người dân, phải trao lại cho dân mọi quyền hành. Dân là chủ, nghĩa là trong xã hội nhân dân là người chủ của nước, nước là nước của nhân dân. Các cơ quan Đảng và Nhà nước là tổ chức được dân ủy thác làm công bộc phục vụ cho nhân dân. Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân, cán bộ, đảng viên là đầy tớ của dân. Đầy tớ là công bộc của dân, vì lợi ích chung mà gánh vác việc dân, phải trung thành và tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân. Họ phải như những người lính vâng mệnh quốc dân mà thi hành nhiệm vụ, thay mặt dân để ra quyết định, phải toàn tâm, toàn ý phục vụ đất nước phục vụ nhân dân. Người nhấn mạnh: Đảng không có mục tiêu nào khác là đem lại lợi ích cho dân.

Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rất rõ giá trị của quyền con người và quyền làm người. Vì vậy, ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, ngày 03-9-1945 trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người chỉ ra 6 nhiệm vụ cấp bách trong đó có nhiệm vụ ban hành hiến pháp để bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân và đề nghị tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái đủ 18 tuổi trở lên đều được quyền ứng cử và bầu cử theo luật định không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo và giống nòi.

Hồ Chí Minh đã xem việc tổng tuyển cử, xây dựng Hiến pháp là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách. Điểm cốt lõi trong quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh là xác định mối quan hệ giữa nhân dân với toàn bộ các cơ quan thuộc hệ thống chính trị, bao gồm Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, trong đó nhân dân lao động là người làm chủ xã hội.

Quán triệt tư tưởng đó, bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta do Người trực tiếp làm trưởng ban soạn thảo đã được Quốc hội thông qua ngày 09-11-1946. Ngay trong lời nói đầu đã xác định: “bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân” là một trong những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp. Trong bản Hiến pháp năm 1946 đã giành cả chương II nói về “quyền lợi và nghĩa vụ công dân” gồm 18 điều cụ thể quy định các quyền dân sự, chính trị cũng như các quyền về kinh tế, văn hóa và xã hội… Theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng hệ thống quyền con người (nhân quyền) ở nước ta ngày càng mở rộng và được quán triệt ngày càng đầy đủ trong các bản Hiến pháp sửa đổi vào các năm 1959, 1982, 1992 và năm 2013 vừa qua cũng như trong đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước. Cả cuộc đời của Người là mẫu mực cho việc phục vụ nhân dân, trong Di chúc, Người viết: VỀ VIỆC RIÊNG - Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Và điều mong muốn cuối cùng của Người là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.

Như vậy, có thể thấy rằng, Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến vấn đề nhân quyền với một nội dung rất rộng lớn, toàn diện và sâu sắc. Tư tưởng nhân quyền của Người quán triệt trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội; nhất là trên lĩnh vực xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, Đảng ta và Nhà nước ta đang tiếp tục phát huy tư tưởng nhân quyền của Người trong quá trình đổi mới. Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định: Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Thêm vào đó, tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc ngày 12-11-2013, đã bầu ra 14 thành viên mới bổ sung vào Hội đồng Nhân quyền. Việt Nam đã trúng cử với số phiếu cao nhất so với 13 nước còn lại, đạt 184/192 phiếu thuận. Việc đông đảo các quốc gia thành viên Liên hợp quốc tín nhiệm bầu Việt Nam làm thành viên Hội đồng Nhân quyền có ý nghĩa lớn về nhiều mặt. Trước hết, điều này thể hiện sự ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với chính sách, nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó có việc xây dựng nhà nước pháp quyền, phát huy dân chủ và bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền của nhân dân./.
TS. Vũ Ngọc Am

Quan điểm của Hồ Chí Minh về một số vấn đề quốc tế
20:54' 14/8/2013
TCCS - Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại là một hệ thống quan điểm về các vấn đề quốc tế, về chiến lược, sách lược cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới. Thực tế cách mạng nước ta chứng tỏ rằng, trên lĩnh vực đối ngoại, tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng cho nhận thức và hành động của chúng ta, từ việc đánh giá cục diện thế giới, quan hệ với các nước lớn, đến lợi ích dân tộc, tập hợp lực lượng quốc tế, dự báo thời cơ và nắm đúng thời cơ, phương châm, phương pháp đối ngoại...

Tiếp cận thế giới bằng những trải nghiệm cá nhân
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp cận thế giới bằng chính cuộc sống bôn ba tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc của mình. Nhận thức, quan điểm, cũng như các nguyên lý tư tưởng của Người được hình thành qua cuộc hành trình khá dài, trực tiếp trải nghiệm một thế giới rộng lớn. Gần 70 năm đầu của thế kỷ XX là thời kỳ trên thế giới diễn ra các sự kiện lớn: hai cuộc chiến tranh thế giới khủng khiếp nhất trong lịch sử; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế diễn ra sôi động sau Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đồng thời với cuộc đấu tranh tư tưởng và đường lối trong Quốc tế II; cuộc cách mạng vô sản thành công tại nước Nga dẫn tới sự ra đời của Liên bang Xô-viết - thành trì cách mạng thế giới; hệ thống xã hội chủ nghĩa được hình thành sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong các thập niên sau đó, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc phát triển như vũ bão, dẫn tới sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, hàng loạt quốc gia ra đời và hình thành nên Phong trào Không liên kết, tồn tại bên cạnh hai hệ thống chính trị - xã hội của thế giới hai cực Liên - Mỹ với những xu hướng chính trị khác nhau. Năm 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, góp phần thay đổi tương quan lực lượng thế giới nghiêng về phe xã hội chủ nghĩa. Và, với cuộc chiến tranh Triều Tiên, Chiến tranh lạnh đã lan sang châu Á. Quan hệ giữa các nước lớn tiếp tục diễn biến rất phức tạp, thậm chí ngay trong phe xã hội chủ nghĩa cũng xảy ra những biến động lớn. Nhãn quan chính trị quốc tế của Hồ Chí Minh đã được hình thành từ quá trình hoạt động trong bối cảnh quốc tế đầy sôi động như vậy. Những quan sát và phân tích của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh về các vấn đề cục diện chính trị quốc tế và thời đại, cũng như cách ứng xử của Người trên trường quốc tế đã dần hình thành nên hệ thống các quan điểm, luận điểm, nguyên lý sát thực, sâu sắc cũng như những hành động đối ngoại mang tính chuẩn mực và rất hiệu quả.
Xác định mối liên hệ mật thiết giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới
Một trong những nguyên nhân của cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc tại Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là các nhà lãnh đạo các phong trào yêu nước tiền bối chưa phân tích được một cách khoa học về cục diện thế giới, tình hình quốc tế và mối liên hệ với trong nước. Hồ Chí Minh đã vượt qua hạn chế này bằng chính những trải nghiệm cá nhân của mình ở nhiều châu lục và bằng cách tiếp cận biện chứng và duy vật lịch sử mác-xít đối với quan hệ quốc tế.
C. Mác - người thày của giai cấp vô sản đã chỉ ra rằng, chủ nghĩa tư bản đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa, biến thế giới trở thành một thị trường chung. Kế thừa C. Mác, V.I. Lê-nin đã chỉ ra mối liên hệ giữa chủ nghĩa đế quốc và sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới với chiến tranh thế giới giữa các nước đế quốc. Hệ quả của tình trạng này là quan hệ quốc tế dưới chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc đã trở nên có tính toàn cầu. Chính vì thế quan điểm toàn diện và hệ thống trong đánh giá cục diện và tình hình thế giới của chủ nghĩa Mác đã tạo ra một công cụ nhận thức để giúp nắm bắt các vấn đề quốc tế một cách khoa học.
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, xuất phát từ quan điểm cho rằng, “tình hình thế giới dính dáng mật thiết với nước ta”(1), và “các cuộc đấu tranh cách mạng của các dân tộc, bất kỳ gần hay xa, to hay nhỏ, đều có quan hệ với nhau”(2), năm 1944, Hồ Chí Minh đã xác định rõ: “Mọi người đều phải theo trào lưu cách mạng thế giới… Việt Nam là một bộ phận của thế giới, cũng không thể đi ngược dòng lịch sử được”(3); giữa Việt Nam và thế giới có “muôn ngàn mối dây liên hệ”. Quan điểm toàn diện và hệ thống trong đánh giá cục diện và tình hình thế giới, cách tiếp cận biện chứng của Hồ Chí Minh khi xem xét các vấn đề quốc tế trong một trạng thái tổng thể, coi một nước là một bộ phận của thế giới với các mối quan hệ qua lại lẫn nhau đã nâng tầm quan trọng của nhân tố thế giới lên một mức mới, tạo nên sự khác biệt lớn giữa Người với các nhà cách mạng tiền bối.
Những người cộng sản Việt Nam được sự giáo dục và chỉ đạo của Người đã tiếp thu phương pháp luận mác-xít để làm cơ sở cho việc nhận thức và dự báo tình hình quốc tế. Vào những năm 1938-1939, Đảng ta đã nhận định tình hình thế giới khi đó: “Các mối liên quan quốc tế ngày nay hết sức phức tạp và thay đổi từng giờ, từng phút… Cần phải nhìn qua những biến cố dồn dập hằng ngày mà xét thấu đại thể, phân tích những biến cố ấy mà tìm lấy những đặc điểm của tình hình kinh tế, chính trị trong một thời gian nhất định đã qua và dự đoán cái xu hướng của quá trình sẽ tới”(4) Trong các văn kiện của Đảng ta bao giờ cũng có phần nhận định và đánh giá tình hình thế giới để tìm ra những cơ sở khách quan, từ đó xây dựng chính sách đối ngoại hiệu quả. Chẳng hạn, khi Đảng ta chủ trương chiến lược đánh Mỹ, Bác nói “Nói miền Nam, cần nhận định thêm tình hình quốc tế để có chính sách đối phó cho khéo”(5).
Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại
V.I. Lê-nin khi phân tích về chủ nghĩa đế quốc đã lưu ý đến sự vận hành của quy luật phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tư bản, theo đó một số nước đã phát triển nhanh hơn các nước khác và từ đó thách thức các nước mà nó đuổi kịp và vượt. Hệ quả là quan hệ quốc tế chủ yếu xoay xung quanh một số nước và trung tâm quyền lực lớn. Trung thành với cách tiếp cận này, trong lĩnh vực chính trị quốc tế, Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới sự xuất hiện của các trung tâm quyền lực lớn và phân tích mâu thuẫn giữa các trung tâm quyền lực đó để phán đoán chiều hướng vận động của cục diện thế giới và khu vực. Nói cách khác, trong tư tưởng và thế giới quan của Hồ Chí Minh về chính trị quốc tế, về vấn đề chiến tranh và hòa bình, các nước và trung tâm quyền lực lớn đóng một vai trò quan trọng. Khi thuyết “châu Âu là trung tâm” vẫn còn chi phối tư duy địa - chiến lược trên thế giới, trong bài “Đông Dương và Thái Bình Dương” viết năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã phân tích: “Vì đã trở thành một trung tâm mà bọn đế quốc tham lam đều hướng cả vào nhòm ngó, nên Thái Bình Dương và các nước thuộc địa xung quanh Thái Bình Dương, tương lai có thể trở thành một lò lửa của chiến tranh thế giới mới mà giai cấp vô sản sẽ phải nai lưng ra gánh. Xem thế thì ta thấy rõ rằng vấn đề Thái Bình Dương là vấn đề mà tất cả mọi người vô sản nói chung đều phải quan tâm đến”(6).
Hồ Chí Minh cũng đã tìm thấy những trào lưu lớn trong cục diện thế giới. Điều này rất quan trọng, bởi lẽ dù các nước lớn nắm khả năng chi phối quan hệ quốc tế, nhưng bên cạnh đó còn có những lực lượng mạnh mẽ khác. Đó là những tư tưởng tiến bộ của thời đại, những mô hình quan hệ quốc tế mới có tính chất khai sáng và giải phóng cho những phong trào cách mạng và tiến bộ xã hội, từ đó hình thành những trào lưu phát triển mới. Người đã phát hiện ra sức mạnh của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một mô hình quan hệ quốc tế mới, sức mạnh của phong trào giải phóng dân tộc (được hỗ trợ bởi chủ nghĩa xã hội) với tư cách là một lực lượng mới trong quan hệ quốc tế, và sức mạnh của phong trào hòa bình với tư cách là nguyện vọng phổ quát của loài người. Chính vì thế, Người nhấn mạnh, điểm mấu chốt để làm cách mạng thành công là phải nhận thấy rõ luật thiên hạ tiến hóa để bước tới đường chính đạo, và mọi người đều phải theo trào lưu cách mạng thế giới.
Hồ Chí Minh đã nhận thấy cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917 ở nước Nga là đại diện cho một trào lưu mới, một lực lượng mới trong nền chính trị quốc tế. Người cho rằng, do Cách mạng Tháng Mười đó mà tư tưởng cộng sản được truyền bá khắp thế giới, trở thành “trào lưu tư tưởng của thời đại”, bởi “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, mọi người đều bình đẳng về kinh tế, đời sống và sự sinh tồn của mỗi người dân đều được bảo đảm, đó là những tư tưởng từ thiện, tương thân tương ái, nhân dân ấm no, thế giới đại đồng. Trên cơ sở đó, Hồ Chí Minh nhận định: “Thời đại chúng ta là thời đại vẻ vang, thời đại thắng lợi của chủ nghĩa xã hội, của độc lập dân tộc, của hòa bình dân chủ; là thời đại suy yếu của chủ nghĩa đế quốc”(7). Tháng 1-1959, trước sự phát triển nhanh chóng của tình hình thế giới, Người bổ sung: “Thời đại chúng ta là thời đại các dân tộc bị áp bức đứng lên giành quyền độc lập tự do của mình. Chủ nghĩa thực dân đang tan rã và không bao lâu nữa sẽ bị tan rã hoàn toàn”(8).
Như vậy, nếu nhận thức được các đặc điểm xu thế thời đại, việc đưa cách mạng Việt Nam vào đúng dòng chảy của thời đại sẽ tăng sức mạnh của nước ta lên gấp bội. Hồ Chí Minh cho rằng, chúng ta không chỉ tìm đồng minh ở các nước lớn và các nước bạn bè mà còn phải dựa vào xu thế lớn của thời đại. Như vậy, bằng cách tiếp cận khoa học và biện chứng, Người đã mở ra một đường lối kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại - một đặc điểm nổi bật của thời đại Hồ Chí Minh trong chiều dài lịch sử hiện đại của Việt Nam.
Đáng chú ý hơn, Hồ Chí Minh thường xuất phát từ cái nhìn toàn cục đối với tình hình để xác định chiều hướng phát triển của quá trình cụ thể, đặc biệt chú trọng tìm ra xu hướng và xu thế vận động chính của chính trị thế giới. Hồ Chí Minh thấm nhuần nguyên lý của V.I. Lê-nin: “chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của một thời đại, chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này hay nước nọ”(9). Trước những thời điểm bước ngoặt của cách mạng nước ta, để đưa ra đường lối, chủ trương cách mạng, Hồ Chí Minh đều xem xét, phân tích kỹ lưỡng tình hình trong nước và xu thế thời đại.
Tóm lại, trong thế giới quan của Hồ Chí Minh, các yếu tố về quan hệ quốc tế với những mối dây liên hệ giữa bộ phận và toàn cục, các chủ thể chủ yếu trong quan hệ quốc tế, và nhất là những quy luật chi phối sự vận động quan hệ giữa các nước lớn và các trung tâm chính trị - kinh tế lớn và thể hiện của nó là những quy luật, xu thế phát triển của tình hình và đặc điểm của thời đại chiếm vị trí rất quan trọng. Chúng được tổng hợp lại thành những nét chính của tư tưởng Hồ Chí Minh khi nhìn nhận và đánh giá quan hệ quốc tế. Quá trình hoạt động cách mạng và đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin của Người cũng đồng thời giúp trang bị cho Người phương pháp luận biện chứng mác-xít, chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng quan điểm toàn diện cũng như hệ thống để tiếp cận quan hệ quốc tế với tư cách là một đối tượng nghiên cứu rất động và phức tạp. Nếu V.I. Lê-nin coi đó là “công cụ nhận thức vĩ đại” thì Hồ Chí Minh cho rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin là cuốn “cẩm nang thần kỳ”, “vũ khí tư tưởng vĩ đại của giai cấp vô sản” và “vũ khí không gì thay thế được”.
Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc 
Hồ Chí Minh là một chiến sĩ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là người nhiệt thành đấu tranh cho chủ nghĩa quốc tế vô sản và quyền lợi của giai cấp công nhân. Nhưng điểm then chốt trong thế giới quan của Hồ Chí Minh vẫn là chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc, và đi cùng với nó là tư tưởng đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Phân tích tình hình thế giới là để giúp Người nhìn ra mối dây liên hệ giữa Việt Nam với thế giới, và, đánh giá đặc điểm quan hệ quốc tế là để giúp tìm lối đi cho con thuyền cách mạng Việt Nam. Đối với Người, khoa học là để phục vụ cách mạng, và cụ thể hơn là phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng dân giàu nước mạnh. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh vốn đã mạnh bởi cơ sở khoa học của nó lại càng mạnh hơn vì đã dựa được vào sức mạnh của truyền thống dân tộc và giành được tính chính danh vì phục vụ lợi ích dân tộc.
Là một người cộng sản, một nhà hoạt động quốc tế, nhưng trên hết, là một người yêu nước nồng nàn, như tên “Ái Quốc,” suốt đời Người phấn đấu hy sinh cho độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là động lực của hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Người từng nhận xét: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lê-nin, tin theo Quốc tế thứ ba”(10). Người đã nhận thấy sức mạnh vô địch của lòng yêu nước khi nói dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn và nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước.
Có thể thấy cách đề cập vấn đề lợi ích dân tộc của Hồ Chí Minh trải qua ba thời kỳ chính, mang những nội dung cụ thể. Thời kỳ đầu hoạt động ở hải ngoại, chính lòng yêu nước và tinh thần dân tộc đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Người luôn kiên trì mục tiêu giải phóng dân tộc dù cho phải vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ, và, khi đã nắm được “cái cẩm nang” cách mạng, Người kiên quyết tìm đường về nước để lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc.
Năm 1941, sau khi Người về nước nắm vai trò lãnh đạo cách mạng và chuẩn bị lực lượng giành chính quyền, tư tưởng phục vụ quyền lợi dân tộc của Người ngày càng được thấm nhuần trong những người cộng sản Việt Nam. Người xác định: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy”(11), thực hiện quyền lợi dân tộc trước sẽ tạo tiền đề cho thực hiện quyền lợi giai cấp. Trong bối cảnh cụ thể này của đất nước, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì “chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Trong giai đoạn chống Mỹ, cứu nước, Hồ Chí Minh luôn nêu cao chủ nghĩa quốc tế và đoàn kết quốc tế, đồng thời với việc đề cao lợi ích dân tộc, nhấn mạnh “Phải có tinh thần dân tộc vững chắc”, Người căn dặn muốn làm gì cũng cần vì lợi ích dân tộc mà làm, và phải luôn luôn vì lợi ích của dân tộc mà phục vụ.
Lợi ích dân tộc cũng là tiêu chí để đánh giá bạn - thù, phân hóa và tập hợp lực lượng. Người cho rằng: “Đối với người, ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức là kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc và đồng bào là kẻ thù. Thế là chẳng những ở ngoài, mà chính ở trong mình ta cũng có bạn và thù. Vì vậy, chúng ta cần phải ra sức tăng cường bạn ở trong và ở ngoài, kiên quyết chống lại kẻ thù ở ngoài và ở trong mình ta”(12).
Đối với Người, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bên cạnh điểm nhấn vào lợi ích của giai cấp vô sản, cũng không hạn chế việc theo đuổi lợi ích dân tộc. Lợi ích dân tộc sẽ được thực hiện bằng việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Viết cho độc giả Liên Xô, Người vẫn nhấn mạnh: “Phải có đường lối cách mạng đúng, có Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo đúng. Đường lối ấy chỉ có thể là đường lối của chủ nghĩa Mác - Lê-nin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của dân tộc”(13).
Xác định đúng đắn mối liên hệ giữa lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp trong quan hệ quốc tế là một nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại.      
Ngay trong bối cảnh phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những bất đồng, ngày 3-8-1956, Hồ Chí Minh viết trên báo Sự thật (Liên Xô) đã đưa ra luận điểm sáng tạo về mối liên hệ nêu trên: “Trong tình hình hiện nay, những đặc điểm dân tộc và những điều kiện riêng biệt ở từng nước ngày càng trở thành nhân tố quan trọng trong việc vạch ra chính sách của mỗi đảng cộng sản và mỗi đảng công nhân... và những vấn đề được đề ra cho đảng này hoặc đảng khác, tuyệt nhiên không phải là “việc riêng” của mỗi đảng mà có quan hệ mật thiết đến toàn bộ giai cấp vô sản quốc tế”(14).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, truyền thống dân tộc và chủ nghĩa yêu nước, đồng thời tiếp thu có chọn lọc các trào lưu lý luận khác, đặc biệt là trào lưu chính trị thực tiễn trong lý luận cũng như thực hành quan hệ quốc tế. Về cơ bản, lập luận của trào lưu chính trị thực tiễn cho rằng, trong tình trạng vô chính phủ của quan hệ quốc tế, các nước đều phải chăm lo đến lợi ích quốc gia của mình nhất là khi các nước thường xuyên có xung đột lợi ích với nhau. Tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia là cách tốt nhất để các nước bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của mình. Do đó, các nước lớn - những nước có ưu thế vượt trội về sức mạnh, nhất là sức mạnh kinh tế và quân sự - không những có khả năng cao hơn để bảo vệ quyền lợi của mình mà còn xây dựng và ra các “luật chơi”, hình thành các thể chế quốc tế để quyền lợi của họ luôn được bảo đảm trên phạm vi quốc tế rộng rãi. Nói cách khác, sức mạnh vật chất đã giúp các nước lớn tạo ra vị trí trong hệ thống và xây dựng “luật chơi” thể hiện đúng vị thế của mình. Hệ quả là, sự thay đổi trong cục diện quốc tế, hệ thống và trật tự quốc tế sẽ phải bắt đầu từ thay đổi trong so sánh lực lượng giữa các nước, nhất là các nước lớn.
Các tư tưởng, nguyên tắc và phương châm chỉ đạo trong đối ngoại, như “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “thêm bạn, bớt thù”, và “kết hợp sức mạnh dân tộc, sức mạnh thời đại”, “tăng cường nội lực” và “tự cứu lấy mình” được kết tinh trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại, ở góc độ nào đó, cũng là sự tiếp thu có chọn lọc và phát triển sáng tạo các nguyên tắc chính trị thực tiễn như đã phân tích ở trên. Các tư tưởng, nguyên tắc và phương châm chỉ đạo đó được thể hiện qua các chính sách của từng giai đoạn và trở thành nguyên nhân của mọi thắng lợi đối ngoại của Việt Nam từ năm 1945 đến nay, kể cả khi ta phải đương đầu với các đối thủ hùng mạnh như thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. 
Cách tiếp cận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại, nhất là với sự nhấn mạnh đến tính chất quyết định của lực lượng vật chất cũng như mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố trong một hệ thống, một mặt, phát huy được tính thực tế của cách tiếp cận chính trị thực tiễn lấy quốc gia làm trung tâm và lợi ích quốc gia làm cơ sở đánh giá quan hệ quốc tế và xây dựng chính sách đối ngoại; mặt khác, kết hợp được một cách hài hòa và nhuần nhuyễn giữa ý thức hệ, lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lê-nin và chủ nghĩa yêu nước hòa quyện thành một trong hoàn cảnh Việt Nam. Chính điều này đã làm nổi bật tính khoa học, tính cách mạng và tính thực tiễn trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại./.

--------------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 2000, t. 6 tr. 170
(2) Hồ Chí Minh, Sđd, t. 6, tr. 452
(3) Hồ Chí Minh, Sđd, t. 3, tr. 464 - 465
(4) Văn kiện Đảng: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 6, tr. 602
(5) Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, t. 8, tr. 136
(6) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 1, tr. 243 - 244
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 307
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 357
(9) V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 26, tr. 174
(10) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 10, tr. 128
(11) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 3, tr. 198
(12) Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 6, tr. 18
(13) Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 9, tr. 295
(14) Hồ Chí Minh: Biên niên tiểu sử, Sđd, t. 6, tr. 315
TS. Đặng Đình Quý, Giám đốc Học viện Ngoại giaoPGS, TS. Nguyễn Vũ Tùng, Học viện Ngoại giao
Tiếp tục đổi mới công tác tôn giáo đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới
15:37' 3/12/2013
TCCS - Đổi mới công tác tôn giáo, trước hết, cần đổi mới nhận thức, chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; đồng thời, cần tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.

Tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam

Hiện nay, ở Việt Nam có 13 tôn giáo với 37 tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận, cấp đăng ký hoạt động. Ngoài các tôn giáo lớn du nhập từ nước ngoài, như Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Bà-la-môn,... còn có các tôn giáo nội sinh, như Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam,... Các tôn giáo ở nước ta, mặc dù độc lập về nghi lễ nhưng gắn bó với nhau trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Bên cạnh đó, còn có nhiều tín ngưỡng dân gian với các nghi lễ đặc sắc, phong phú, được đông đảo người dân sùng kính, như tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ Vua Hùng, thờ Đức thánh Trần,...

Theo thống kê, ở nước ta hiện có khoảng 24 triệu tín đồ tôn giáo, chiếm khoảng 27% dân số cả nước. Trong đó, chủ yếu là tín đồ Phật giáo (hơn 11 triệu người), Công giáo (gần 7 triệu người), Tin Lành (hơn 1 triệu người), Cao Đài (2,4 triệu người), Phật giáo Hòa Hảo (1,5 triệu người), Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam (hơn 1 triệu người); còn lại là tín đồ các tôn giáo khác, chiếm gần nửa triệu người. Số lượng chức sắc, nhà tu hành khá đông, khoảng 83 nghìn người; ngoài ra còn có 250 nghìn chức việc trông coi việc đạo ở khoảng 25 nghìn cơ sở thờ tự.

Các nghiên cứu thực tế cho thấy, tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam có các đặc điểm cơ bản sau:

Một là, các tín ngưỡng, tôn giáo có sự dung hợp, đan xen và hòa đồng, không kỳ thị, tranh chấp và xung đột. Các tín ngưỡng truyền thống phản ánh đời sống tâm linh phong phú, đa dạng, sự khoan dung, độ lượng, nhân ái của người Việt Nam và tinh thần đoàn kết toàn dân tộc. Đây là những yếu tố để người Việt Nam dễ hòa đồng với nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Trong nhiều cộng đồng dân cư có sự xen kẽ giữa người có tôn giáo và người không có tôn giáo. Ở nhiều nơi, trong cùng một làng, xã, có nhóm tín đồ của tôn giáo này sống đan xen với nhóm tín đồ của tôn giáo khác hoặc với những người không theo tôn giáo, và họ sống hòa hợp với nhau trên nền tảng làng, xóm, dòng họ.

Hai là, các tôn giáo ở Việt Nam chủ yếu thờ Thượng đế và linh nhân là người nước ngoài. Các nghiên cứu về lịch sử tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cho thấy, tư tưởng tôn giáo có từ người Việt cổ, thể hiện trực quan qua các hình tượng chim Lạc và con Rồng, những linh nhân, như Vua Hùng, Mẫu Âu Cơ, Chúa Liễu Hạnh,... nay vẫn chỉ là niềm tin dân gian, chỉ là các tín ngưỡng. Hệ thống giáo lý của các tôn giáo nội sinh (Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam,...) hầu hết đều sao chép, ảnh hưởng hoặc vay mượn từ các tôn giáo du nhập.

Ba là, các tôn giáo, dù du nhập từ nước ngoài hay nội sinh, đều gắn bó và có sự tác động nhất định (tích cực và tiêu cực) tới lịch sử dân tộc từ thế kỷ thứ IV (sau Công nguyên) đến nay.

Bốn là, mỗi tín ngưỡng, tôn giáo mang những nét văn hóa riêng biệt nhưng đều hướng đến Chân - Thiện - Mỹ, chịu ảnh hưởng của truyền thống dân tộc, góp phần tạo nên những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú về bản sắc của dân tộc. Thực tế, mỗi tôn giáo đều mang trong nó một hay nhiều tín ngưỡng; các tín ngưỡng này đã có sự giao thoa với văn hóa Việt Nam. Qua hàng trăm năm tồn tại, phát triển, văn hóa tín ngưỡng ngoại nhập dần được Việt hóa và trở thành một bộ phận của văn hóa Việt Nam (dù không thuần nhất).

Năm là, trong lịch sử cận, hiện đại của dân tộc, các thế lực thực dân, đế quốc, phản động luôn tìm mọi cách lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo và các vấn đề liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo để xâm lược, đô hộ nước ta, hoặc gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, phục vụ cho ý đồ đen tối của chúng. Hiện nay, các thế lực thù địch vẫn sử dụng, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo như một thứ vũ khí nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, phá hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với chiêu bài “tự do tôn giáo”, “nhân quyền”, chúng xuyên tạc, bóp méo đường lối, chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta, âm mưu tạo ra lực lượng và xây dựng ngọn cờ trong tôn giáo hòng lật đổ Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Một số vấn đề phức tạp trong tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay

Tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, về cơ bản là ổn định, do nhận thức ngày càng rõ của đại bộ phận tín đồ, chức sắc tôn giáo về đường lối, chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta. Hệ thống quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo được bổ sung, hoàn thiện; công tác vận động quần chúng và công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, về an ninh, trật tự ở cơ sở ngày càng được chú trọng. Ban lãnh đạo các cấp của hầu hết các tổ chức tôn giáo đều đang hướng các tôn giáo theo hoạt động “đồng hành cùng dân tộc”. Tuy nhiên, còn có những phần tử xấu, thậm chí phản động trong các tôn giáo lợi dụng các vấn đề nổi cộm trong hoạt động tôn giáo, trong quan hệ giữa chính quyền và nhân dân địa phương để kích động, gây rối, hậu thuẫn cho các phần tử chống đối ở trong nước và nước ngoài. Biểu hiện cụ thể là:

Tình trạng chuyển nhượng, hiến tặng đất, mở rộng cơ sở thờ tự, xây dựng nhà thờ, nhà nguyện trái pháp luật diễn ra ở nhiều địa phương. Việc dựng tượng Thánh, tượng Chúa, tượng Phật,... trên đất công vẫn còn diễn ra ở một số nơi.

Các hoạt động tôn giáo trái pháp luật. Tình trạng chức sắc “phong chui”, “tự nhận” tuy giảm nhưng vẫn tiếp diễn; hoạt động in ấn, xuất bản, nhập từ nước ngoài và lưu hành kinh sách, ấn phẩm tôn giáo trái phép vẫn diễn ra; hiện tượng giảng đạo, truyền đạo trái pháp luật tiếp tục diễn ra ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới.

Vấn đề mâu thuẫn nội bộ ở một số tổ chức tôn giáo. Do vấn đề lợi ích cá nhân hoặc việc không thống nhất được đường hướng hoạt động của các hệ phái tôn giáo nên đã dẫn đến mâu thuẫn nội bộ ở một số tổ chức tôn giáo. Từ đó, hình thành những hoạt động nhằm tranh giành tín đồ ở một số nhóm, hệ phái tôn giáo, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý nhà nước về tôn giáo.

Hoạt động phức tạp của các tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thời gian qua, ở các vùng chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, hoạt động tôn giáo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số có những tác động xấu đến an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội. Tại đây, các đối tượng phản động đã lợi dụng tôn giáo để tập hợp lực lượng, thực hiện các hoạt động gây rối, bạo loạn, đòi ly khai, phá hoại khối đoàn kết toàn dân tộc, như xưng vua và lập nhà nước Mông ở Tây Bắc, lập nhà nước Đê-ga ở Tây Nguyên, đòi tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam,...

Hoạt động chống đối chính quyền của các phần tử phản động trong các tôn giáo. Với sự tiếp tay của các thế lực thù địch ở nước ngoài và nhóm “Đảng Việt Tân”, một số nhóm, cá nhân ở trong nước và nước ngoài tiến hành tuyên truyền, kích động nhân dân gây rối, chống lại chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.

Các hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo mới, đạo lạ và tà đạo. Theo thống kê, ở Việt Nam hiện có khoảng 60 hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo mới, du nhập từ nước ngoài hoặc nội sinh (thực chất là các tổ chức tín ngưỡng mang màu sắc tôn giáo). Một số hiện tượng tín ngưỡng đang hình thành tổ chức, tiến tới đăng ký hoạt động tôn giáo mới. Tuy nhiên, hoạt động của nhiều nhóm trong số này có biểu hiện dị đoan, gây ảnh hướng xấu đến đời sống văn hóa. Một số tổ chức phản động cũng núp dưới danh nghĩa tôn giáo để tập hợp lực lượng, như “Hội đồng Công luật công án Bia Sơn”, “Cây Thập giá Chúa Giê-su Cờ-rít”,...

Thành tựu trong đổi mới công tác tôn giáo

Quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác tôn giáo trong thời kỳ đổi mới

Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng ta về tự do tín ngưỡng, tôn giáo và đoàn kết dân tộc qua các thời kỳ cách mạng, trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã có nhiều chủ trương về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác tôn giáo. Nghị quyết số 24/NQ-TW, ngày 16-10-1990, của Bộ Chính trị khóa VI “Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” đã nêu hai luận điểm mang tính đột phá: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân” và “Tôn giáo có những giá trị văn hóa, đạo đức phù hợp với chế độ mới”. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, Đảng ta đã thông qua Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12-3-2003, “Về công tác tôn giáo”. Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc”(1).

Quan điểm, chủ trương của Đảng ta về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác tôn giáo thể hiện tập trung ở những nội dung chủ yếu: Xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân; thống nhất quyền lợi, nghĩa vụ của công dân để các chức sắc, nhà tu hành, tín đồ tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”; phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo trong xây dựng xã hội mới; công tác vận động chức sắc, tín đồ tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị; kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng và sử dụng tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân; xây dựng bộ máy làm công tác tôn giáo của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể nhân dân năng động, hoạt động hiệu quả, với đội ngũ cán bộ có tri thức, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có đạo đức trong sáng, có uy tín trong đồng bào tôn giáo,…

Hệ thống pháp luật, pháp quy của Nhà nước về công tác tôn giáo 

Pháp luật là công cụ pháp lý quan trọng trong quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Trong quá trình hoàn thiện pháp chế xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo từng bước được hoàn thiện, thể chế hóa đầy đủ quan điểm, chủ trương của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo và công tác tôn giáo, phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Điều này được thể hiện rõ nét nhất trong Hiến pháp năm 1992, Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo và một số văn bản pháp luật. Cụ thể là:

Điều 70, Hiến pháp năm 1992 quy định: Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước...

Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (có hiệu lực từ ngày 15-11-2004) gồm 6 chương, 41 điều, quy định rõ các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; quyền và nghĩa vụ công dân của chức sắc, nhà tu hành, tín đồ các tôn giáo; sự bảo hộ nhà nước đối với các tín ngưỡng, tôn giáo; hoạt động của các tín ngưỡng, các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam; quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ tôn giáo;…

Nghị định số 92/2012/NĐ-CP, ngày 8-11-2012, của Chính phủ “Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo” (gồm 5 chương, 46 điều), thay thế Nghị định số 22/2005/NĐ-CP, ngày 01-3-2005, của Chính phủ, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó bổ sung nhiều điểm mới về quản lý đối với hoạt động tín ngưỡng; điều kiện, quy trình và thời hạn giải quyết đăng ký sinh hoạt tôn giáo, đăng ký hoạt động tôn giáo, thời hạn công nhận là tổ chức tôn giáo; quản lý đối với trường đào tạo tôn giáo trong việc tuyển sinh; đăng ký hiến chương, điều lệ sửa đổi (nếu có) của tổ chức tôn giáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền; hoạt động tôn giáo tại cơ sở được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh; phân loại các công trình tín ngưỡng, tôn giáo, công trình phụ trợ và yêu cầu về cấp phép xây dựng nhằm bảo đảm tuân thủ pháp luật về xây dựng; sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài tại cơ sở tôn giáo của Việt Nam; các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan trong việc quản lý hoạt động tôn giáo; tiếp nhận và xử lý hồ sơ của các tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động tôn giáo, số lượng hồ sơ gửi đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thời hạn trả lời các tổ chức, cá nhân tôn giáo, tiếp nhận hồ sơ;...

Một số văn bản pháp luật khác là Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg, ngày 04-2-2005, của Thủ tướng Chính phủ về một số công tác đối với đạo Tin Lành; Chỉ thị số 1940/CT- TTg, ngày 31-12-2008, của Thủ tướng Chính phủ về nhà đất liên quan đến tôn giáo; Thông tư số 01/2013/TT-BNV, ngày 25-3-2013, của Bộ Nội vụ “Ban hành và hướng dẫn sử dụng biểu mẫu và thủ tục hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo”. Bên cạnh đó, Quốc hội đã thông qua nhiều đạo luật, nghị quyết điều chỉnh các mối quan hệ nảy sinh trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, như Bộ luật Hình sự, Luật Đất đai, Nghị quyết số 23/2003/QH11, ngày 26-11-2003, “Về nhà đất do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991”,...

Công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo

Trong thời kỳ đổi mới đất nước, quan điểm, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thực hiện cởi mở hơn, nhất là từ khi thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo (năm 2004) đến nay, đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo. Các lễ trọng của các tôn giáo hằng năm, các đại hội nhiệm kỳ của các tổ chức tôn giáo,... được tổ chức trọng thể, trang nghiêm, an toàn, với quy mô ngày càng lớn hơn, thu hút đông đảo tín đồ tham dự. Nhiều lễ hội tôn giáo đã trở thành sinh hoạt văn hóa chung của cộng đồng, như Lễ Phật đản của Phật giáo, Lễ Nô-en của Công giáo và Tin Lành,... Nhiều cơ sở thờ tự của các tôn giáo được các cấp chính quyền tạo điều kiện cho xây dựng, tu sửa khang trang; việc phong chức, phong phẩm, thuyên chuyển nơi tu hành của các chức sắc cũng dễ dàng hơn.

Các hoạt động thuần tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng ổn định theo đúng hiến chương, điều lệ tổ chức, bảo đảm tuân thủ pháp luật. Các chức sắc, tín đồ tôn giáo, nhìn chung, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, chấp hành tốt pháp luật, phát huy truyền thống yêu nước, gắn bó, đoàn kết, đồng hành cùng dân tộc, hăng hái tham gia các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và củng cố quốc phòng, bảo đảm trật tự, trị an, góp phần vào thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng và đổi mới quê hương, đất nước.

Mối quan hệ giữa các tổ chức tôn giáo với các cấp chính quyền từng bước được cải thiện, qua đó, tạo được sự hiểu biết, tôn trọng và đồng thuận trong nhiều công việc chung. Các kỳ đại hội, lễ trọng của các tôn giáo đều được cấp ủy, chính quyền, đoàn thể nhân dân ở địa phương hướng dẫn, giúp đỡ tận tình, chu đáo và cử đại diện đến tặng quà và chúc mừng. Chính quyền các cấp tạo điều kiện thuận lợi cho các tôn giáo in ấn kinh sách, tặng sổ bảo hiểm y tế hằng năm, thường xuyên gặp gỡ, thăm hỏi các chức sắc, chức việc tôn giáo.

Chính quyền các cấp cũng tạo điều kiện cho đồng bào các tôn giáo “đồng hành cùng dân tộc”, phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo trong xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; hướng dẫn, động viên tín đồ tích cực tham gia hoạt động xã hội, từ thiện, thực hiện phương châm sống “tốt đời, đẹp đạo”, hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, đồng thời mở rộng uy tín, ảnh hưởng của tôn giáo mình.

Quan hệ giữa đạo và đời, giữa các tôn giáo với nhau ngày càng tốt đẹp. Các chức sắc, chức việc của tôn giáo này đến dự lễ trọng, hội họp, mít tinh của tôn giáo khác là chuyện thường xuyên; việc tự nguyện đóng góp, giúp đỡ của tín đồ tôn giáo này cho tín đồ tôn giáo khác và những người không theo tôn giáo trở nên khá phổ biến, thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó giữa các tôn giáo, giữa đạo và đời.

Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức trọng thể, thành công ở nước ta thời gian qua được dư luận thế giới đánh giá cao, là minh chứng sinh động về chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Điển hình là các hoạt động: Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc (Vesak) năm 2008; Hội nghị Nữ giới Phật giáo thế giới lần thứ XI (năm 2009 - 2010); Lễ Khai mạc Năm Thánh của Giáo hội Công giáo năm 2009; Hội nghị Liên Hội đồng Giám mục Á châu lần thứ X (năm 2012);... Nhìn chung, các hoạt động tôn giáo quốc tế nói trên đều thành công tốt đẹp, đạt được mục tiêu. Nhờ có sự giúp đỡ của Nhà nước ta, các hoạt động đó đều tuân thủ pháp luật, an toàn, hoành tráng, giàu bản sắc dân tộc Việt Nam, gây ấn tượng với bạn bè quốc tế.

Một số vấn đề đặt ra trong đổi mới công tác tôn giáo trước tình hình mới 

Thứ nhất, sửa đổi một số nội dung của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, tiến tới xây dựng Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Hiện nay, vấn đề “thể nhân” và “pháp nhân” của các tổ chức tôn giáo chưa rõ ràng. Các tổ chức tôn giáo được công nhận, được đăng ký hoạt động, song lại không có quyền pháp nhân, như các hội đoàn, các tổ chức phi chính phủ,… (Trong Luật Dân sự chưa quy định chỗ đứng cho các tổ chức tôn giáo). Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng mà các tôn giáo và người làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo đang lúng túng trong việc xử lý.

Nhiều mối quan hệ của tín ngưỡng, tôn giáo chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh, do đó, chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế (chẳng hạn, chưa có quy định về “tà đạo”, về hoạt động của các giáo hội tôn giáo Việt Nam ở nước ngoài; hoặc quy định chưa đầy đủ về các hoạt động xã hội của tôn giáo, về hoạt động, sinh hoạt tôn giáo của người nước ngoài ở Việt Nam;…). Vấn đề quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo cũng chưa được cụ thể hóa, còn chung chung.

Hiện nay, bộ luật cơ bản của Nhà nước là Hiến pháp năm 1992 đang được sửa đổi, bổ sung. Sau khi Hiến pháp được hoàn thiện, thông qua sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thiết kế các bộ luật ngành, nhánh, trong đó có Luật Tín ngưỡng, tôn giáo. Do đó, trước mắt cần nhanh chóng sửa chữa, bổ sung Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, để nó trở thành một văn bản pháp luật đầy đủ, làm cơ sở cho việc xây dựng Luật Tín ngưỡng, tôn giáo sau này.

Thứ hai, củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo. Công tác tôn giáo là công việc khó khăn, nhạy cảm, đòi hỏi mỗi cán bộ trong hệ thống chính trị phải nắm vững và vận dụng sáng tạo, linh hoạt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo, nhằm vận động đông đảo đồng bào các tôn giáo tích cực tham gia công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đảng và Nhà nước cần thường xuyên quan tâm, chỉ đạo việc củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp phù hợp với tình hình mới. Để vừa làm công tác vận động xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, vừa làm công tác hướng dẫn, tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ luật pháp, cho cộng đồng tôn giáo với 24 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số, một lãnh địa với những vấn đề nhạy cảm mang tính quốc tế, cần có một thiết chế đủ tầm, đủ mạnh từ Trung ương đến cơ sở thì mới đáp ứng được nhiệm vụ đầy cam go này.

Bên cạnh đó, cần xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo có bản lĩnh chính trị, tâm huyết, được đào tạo bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ; đồng thời, có chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ này một cách phù hợp.

Thứ ba, xử lý các vấn đề nảy sinh trong tín ngưỡng, tôn giáo. Trước hết, cần thống nhất nhận thức về tín ngưỡng, tôn giáo, công tác tôn giáo và quan điểm xử lý các vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, làm cho mọi người dân thấy rằng, đổi mới quan điểm, chính sách, quan hệ với các tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những đổi mới quan trọng của quá trình đổi mới toàn diện đất nước.

Phải xem xét các vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trên quan điểm lịch sử - cụ thể để xử lý một cách biện chứng. Chủ động phát hiện nguyên nhân các vấn đề có thể nảy sinh trong tín ngưỡng, tôn giáo để chủ động xử lý, không để bùng phát thành “điểm nóng”, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự xã hội và quan hệ quốc tế, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nếu đã nảy sinh các vụ, việc về tín ngưỡng, tôn giáo thì chủ động xử lý tại cơ sở, không để lây lan trên diện rộng. Phải hình thành tư tưởng “chủ động trong công tác tôn giáo”.

Thứ tư, hình thành nguyên tắc, phương châm trong công tác tôn giáo. Cần quán triệt sâu sắc đường lối của Đảng về lực lượng quần chúng cách mạng, về tín ngưỡng, tôn giáo, về vấn đề dân tộc. Phải thấy được rằng, giải quyết vấn đề tôn giáo là giải quyết vấn đề lực lượng cách mạng; công tác tôn giáo phải là công tác của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng. Trong công tác tôn giáo, luôn bảo đảm nguyên tắc: Giải quyết vấn đề tôn giáo phải dựa trên yêu cầu, nhiệm vụ chính trị là chính; phải vận dụng đường lối của Đảng về vấn đề dân tộc, tôn giáo, quốc tế một cách sáng tạo trong khi áp dụng các biện pháp pháp luật. Giải quyết vấn đề tôn giáo phải nhằm đạt được kết quả toàn diện, lâu dài. Đồng thời, cần quán triệt phương châm: Luôn luôn sử dụng các yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo, dân tộc để giải quyết các vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo; phải vừa tranh thủ, vừa đấu tranh khi giải quyết các vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo, lấy tranh thủ là chính.

Thứ năm, chú trọng công tác đối ngoại tôn giáo. Cần nghiên cứu, xem xét mở rộng mặt trận đối ngoại thông qua con đường tôn giáo (bao gồm cả đối ngoại nhân dân và đối ngoại nhà nước) nhằm phục vụ công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế, trong đó chú trọng quan hệ với Va-ti-can, các quốc gia có đông tín đồ Hồi giáo ở Trung Đông, Đông Nam Á và các quốc gia có đông tín đồ Phật giáo ở Đông Nam Á, đặc biệt là với Lào và Cam-pu-chia là hai quốc gia láng giềng thân thiện, có từ 90% đến 95% dân số theo đạo Phật./.

------------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 245
Phạm DũngPGS, TS, Thứ trưởng Bộ Nội vụ kiêm Trưởng Ban Tôn giáo Chính phủ


Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, nâng lên tầm cao mới tư tưởng độc lập tự chủ, hòa bình và hội nhập thế giới - một truyền thống lâu đời của chính trị Việt Nam
22:16' 11/9/2013
TCCSĐT - Độc lập tự chủ, hòa bình, hữu nghị là tư tưởng chính trị xuyên suốt của dân tộc ta trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Ngày nay, chúng ta vẫn không ngừng đấu tranh cho độc lập tự chủ, giữ vững chủ quyền quốc gia và quyền tự quyết, thể hiện trong các vấn đề liên quan tới hoạch định và triển khai chính sách đối nội và đối ngoại vì hòa bình và lợi ích quốc gia - dân tộc.

Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế hiện nay tạo cho nước ta vị thế mới với những thuận lợi và cơ hội to lớn cùng những khó khăn và thách thức trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ, vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia. Đại hội lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Phải đặc biệt quan tâm giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững”. Giữ vững độc lập tự chủ, hòa bình là điều kiện tiên quyết tạo nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và khắc phục có hiệu quả những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia.
Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng đối với an ninh và phát triển bền vững của đất nước, Đại hội XI của Đảng đã có bước phát triển mới, bổ sung và hoàn thiện nhận thức mới về nội dung độc lập tự chủ trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa để làm cơ sở lý luận cho việc xây dựng và triển khai đường lối phát triển đất nước trong thời kỳ mới, góp phần tích cực hơn nữa vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhận thức này của Đảng ta thể hiện rõ sự kế thừa và nâng lên ở tầm cao mới tư tưởng độc lập tự chủ, hòa bình, hữu nghị và hội nhập thế giới của chính trị Việt Nam truyền thống.
1. Độc lập tự chủ là khát vọng cháy bỏng và là mục đích của sự nghiệp đấu tranh anh dũng của dân tộc Việt Nam với sự hy sinh xương máu của các thế hệ trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, dân tộc Việt Nam cũng quyết giữ vững bờ cõi, quyết không bị áp đặt, quyết ra sức bảo tồn tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc. Trong quá trình dựng nước và giữ nước, mặc dù dân tộc ta có khi bị giặc ngoại xâm đô hộ - dĩ nhiên có chịu ảnh hưởng của những luồng tư tưởng của các nền văn hóa bên ngoài - nhưng cái mà các chính quyền đô hộ không bao giờ áp đặt được cho Việt Nam là thân phận một dân tộc nô lệ.
Đồng thời với các cuộc đấu tranh chống xâm lược, quá trình giao lưu với thế giới bên ngoài của dân tộc ta cũng diễn ra một cách tự nhiên. Nằm ở nơi tiếp giáp, giao thoa của nhiều nền văn hóa, văn minh lớn; nền văn hóa, văn minh Văn Lang - Âu Lạc do tổ tiên ta dày công sáng tạo chủ yếu được hình thành trên cơ sở những năng lực sáng tạo nội sinh và một phần tiếp thu những giá trị ngoại sinh phù hợp qua giao lưu với các nền văn hóa khác.
Không chỉ dừng lại ở việc “đón nhận” thế giới, ông cha ta còn chủ động “đi ra” thế giới. Sử sách Trung Quốc ghi nhận: vào năm thứ sáu đời vua Thành Vương nhà Chu, một sứ bộ ngoại giao của ta đã sang thăm Trung Quốc. Qua ba lần thông dịch, sứ bộ ta mới tới được kinh đô nhà Chu. Sứ bộ ta đem tặng vua nhà Chu chim trĩ trắng, loại chim quý nhất ở phương Nam thời ấy. Nhà Chu trân trọng đáp lại, cho làm năm cỗ xe có kim chỉ nam để đưa sứ bộ ta về nước(1).
Sách Đại Việt sử kí toàn thư cũng ghi về sự kiện này: Thời Thành vương nhà Chu (1063 - 1026 TCN), sứ thần nước Việt lần đầu sang thăm nhà Chu (không rõ vào đời Hùng vương thứ mấy), xưa là Việt thường thị, hiến chim trĩ trắng”(2).
Những sự kiện trên cho thấy, ngay từ thời mới dựng nước, dân tộc ta đã  có nền văn hiến, biết sử dụng những biểu tượng cao đẹp của con người làm quà tặng trong giao tiếp đối ngoại, thể hiện sự hiểu biết và tôn trọng đối với các dân tộc khác. Có thể nói, từ thời Hùng Vương, dân tộc ta đã có tinh thần bang giao, hòa bình, hữu nghị với tất cả các dân tộc, dù ở xa ta hàng vạn dặm.
Mở đầu mục Bang giao chí trong sách Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú viết: “Trong việc trị nước, hòa hiếu với nước láng giềng là việc lớn, mà những khi ứng thú lại rất quan hệ, không thể xem thường, người có quyền trị nước phải nên cẩn thận”(3). Ông cũng cho biết: “Nước ta từ thời Hùng Vương đã bắt đầu thông hiếu với Trung Quốc”(4). Những vương triều độc lập đầu tiên của dân tộc, từ thời Đinh và Tiền Lê tại kinh đô Hoa Lư, nước Đại Cồ Việt đã nhiều lần tiếp đón các sứ bộ ngoại giao của Trung Quốc một cách trọng thị, với tinh thần bang giao hữu nghị, khiến cho sứ giả Tung Quốc phải kính nể.
Thời nhà Lý, nhà Trần - từ thế kỷ XII -  XIII, Đại Việt đã có quan hệ thương mại với Java (In-đô-nê-xi-a ngày nay) và Xiêm La (Thái Lan ngày nay). Đến thế kỷ XVI, Việt Nam đã tham gia trực tiếp vào hệ thống giao thương toàn cầu khi cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài đều buôn bán rất sôi động với châu Âu. Thế kỷ XVII, những thương gia Bồ Đào Nha, Hà Lan, Pháp và Anh đã đến Phố Hiến (Hưng Yên), Hội An, những nơi mà người Nhật Bản đã đến trước họ từ lâu.
Bên cạnh kinh tế, các triều đại phong kiến độc lập Việt Nam đã nỗ lực chủ động thúc đẩy quan hệ chính trị, đặc biệt là hàn gắn và củng cố quan hệ với các nước láng giềng, lân bang để giữ hòa hiếu, tạo dựng môi trường hòa bình hữu nghị để phát triển ngay sau khi đất nước giành được độc lập. Có thể nói, Việt Nam đã tham gia rất sớm vào quá trình giao lưu với các dân tộc trên thế giới, nhất là với các nước láng giềng và khu vực. Quá trình giao lưu, trao đổi với bên ngoài vừa giúp dân tộc ta tiếp thu tinh hoa văn hóa của khu vực và thế giới, phát triển sản xuất, biến cái của người thành cái của mình, qua đó vươn lên tự cường dân tộc, giữ vững chủ quyền và củng cố độc lập tự chủ.
Như vậy, trong lịch sử dân tộc, độc lập tự chủ luôn là tư tưởng xuyên suốt; hội nhập đã diễn ra sớm, dù ở quy mô, mức độ khác nhau do thăng trầm lịch sử, nhưng đều được coi là phương tiện và giải pháp nhằm phát triển đồng thời bảo vệ độc lập, tự chủ của dân tộc.
2. Ngay sau khi giành độc lập dân tộc năm 1945, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có quan điểm mới và tích cực về độc lập dân tộc và hội nhập quốc tế. Đó là, độc lập tự chủ là nguyên tắc không thay đổi, còn hội nhập quốc tế, mà trước hết là tranh thủ sự giúp đỡ về kinh tế của quốc tế phục vụ lợi ích dân tộc lúc đó là kiến thiết đất nước.
Ngày 23-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản vào xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác. Có thể rằng: chúng ta sẽ mời những nhà chuyên môn Pháp cũng như Mỹ, Nga hay Tàu đến đây giúp việc cho chúng ta trong cuộc kiến thiết quốc gia. Nhưng phải nhắc lại rằng, điều kiện chính vẫn là họ phải thừa nhận nền độc lập của xứ này. Nếu không vậy, thì không thể nói được chuyện gì cả”(5).
Từ cuối năm 1946, khi những nỗ lực ngoại giao với Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh vì một nền hòa bình, tránh một cuộc chiến tranh cho nước Pháp với Việt Nam và Đông Dương không thành công...(6), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta vừa chủ động không ngừng một phút công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, vừa tiếp tục chủ trương hội nhập, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế để “kháng chiến và kiến quốc”, kiên quyết kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, để bảo vệ nền độc lập dân tộc, không vì hội nhập mà đánh mất độc lập tự chủ. Tháng 12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ chủ trương “mở cửa”, hội nhập quốc tế của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực: a/Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ thuật của mình; b/Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; c/Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới dự lãnh đạo của Liên hợp quốc”(7).
Đến đầu những năm 1950, khi điều kiện trong nước và quốc tế đã thuận lợi hơn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế thành hiện thực với việc Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với một loạt nước như Trung Quốc, Liên Xô, Triều Tiên và các nước dân chủ nhân dân khác ở Đông Âu.
Thông qua hội nhập quốc tế, nhân dân Việt Nam đã tranh thủ được sức mạnh của thời đại, phục vụ cho lợi ích quốc gia - dân tộc cao nhất lúc đó là giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Qua kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn thành bài học lịch sử: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại” và nhờ vận dụng linh hoạt bài học đó, Đảng đã gắn kết và phát huy được sức mạnh tổng hợp ở trong nước của mọi tầng lớp nhân dân và sự ủng hộ của các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới, đưa cách mạng dân tộc, dân chủ Việt Nam đi từ Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thắng lợi đến đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Như vậy, theo quan điểm của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, độc lập tự chủ là cơ sở, là cái quyết định để hội nhập thành công, và chính hội nhập lại giúp chúng ta tranh thủ được sức mạnh của thời đại để củng cố độc lập tự chủ của dân tộc. Điều đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết lại: Có tự lập mới độc lập, có tự cường mới có tự do. Song, chúng ta cũng nhận thức rõ ràng là độc lập tự chủ không đồng nghĩa với biệt lập hoặc cô lập mà phải đi đôi với việc chủ động mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở xử lý đúng đắn quan hệ giữa lợi ích quốc gia dân tộc với lợi ích giai cấp, lợi ích quốc tế. Điều này luôn luôn thể hiện rõ nét trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, khi nhìn vào toàn bộ sự nghiệp và cuộc đời hoạt động cách mạng của Người: gắn chủ nghĩa yêu nước, với cuộc đấu tranh giai cấp, gắn giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc. Dân tộc - giai cấp - nhân loại là một chỉnh thể không đối lập trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh cũng như trong đường lối cách mạng của Người.
Độc lập tự chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh là điểm tựa vững chắc, là sức mạnh khi ta tham gia hội nhập quốc tế. Càng hội nhập quốc tế sâu rộng thì càng cần có độc lập tự chủ để chúng ta có thể tự quyết định con đường phát triển và hướng đi của tiến trình hội nhập sao cho phù hợp với hoàn cảnh và đặc thù của quốc gia. Đồng thời, vị thế độc lập càng củng cố và các giá trị quốc gia càng được nâng cao khi cộng đồng thế giới đánh giá cao và đặt niềm tin vào các quốc gia có bản lĩnh, có bản sắc văn hóa độc lập. Vì vậy, độc lập tự chủ còn là “chiếc neo về bẳn sắc”; hội nhập càng sâu rộng, ý thức về bản sắc càng cao và nhu cầu gìn giữ giá trị văn hóa, truyền thống dân tộc càng lớn.
Ngược lại, hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện để tăng cường khả năng giữ vững độc lập tự chủ thông qua tiếp cận, huy động thêm nguồn lực từ bên ngoài và làm tăng vị thế quốc tế của đất nước. Hơn nữa, hội nhập quốc tế tạo ra các mối ràng buộc và đan xen lợi ích giữa quốc gia với các đối tác. Điểm ưu việt và sáng tạo trong tư duy chính trị của Đảng ta là ở chỗ Đảng coi độc lập tự chủ gắn liền với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đúng như Hồ Chí Minh từng nói: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(8). Đó là cam kết chính trị, là khẩu hiệu hành động của một Đảng cầm quyền của dân, do dân và vì dân. 
3. Kế thừa truyền thống chính trị tốt đẹp của dân tộc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập tự chủ, dưới ánh sáng của đường lối đổi mới đo Đại hội Đảng lần thứ VI khởi xướng, Đảng ta đã nhận thức đúng và giải quyết thành công mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế với việc đổi mới mạnh mẽ tư duy đối ngoại, nhất là về mối quan hệ giữa hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế, giữa lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế, giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.
Nghị quyết 13-NQ/TW của Bộ Chính trị với chủ đề Giữ vững hòa bình và phát triển kinh tế thể hiện rõ sự thay đổi tư duy đó: “Với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh, cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng ta sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội hơn”(9). Nghị quyết còn nhấn mạnh: Việt Nam phải “ra sức lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật và xu thế quốc tế hóa cao của nền kinh tế thế giới, đồng thời tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế, đi vào làm kinh tế thật sự có hiệu quả”(10).
Đại hội Đảng lần thứ VII đánh dấu bước phát triển mới trong đường lối đối ngoại của Đảng, đề ra chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, theo phương châm “thêm bạn bớt thù” với tuyên bố: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”(11).
Sau khi chúng ta phá vỡ được thế bao vây, cấm vận đầu những năm 1990, quá trình hội nhập của Việt Nam được triển khai mạnh mẽ hơn. Trong đường lối đối ngoại, Đảng ta luôn chú trọng xác định mục tiêu đối ngoại là: “Tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời đóng góp tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ va tiến bộ xã hội”(12). Sau Đại hội lần thứ VII, tình hình quốc tế và khu vực diễn biến nhanh và phức tạp, đặc biệt là sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu. Trước tình hình đó, Hội nghị Trung ương 3 khóa VII đề ra tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại là: “Giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí , điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng ta có quan hệ”(13). Đây chính là sự kế thừa và vận dụng sáng tạo triết lý ngoại giao Hồ Chí Minh: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, vừa kiên định về nguyên tắc chiến lược, vừa mềm dẻo, linh hoạt về sách lược trong tình hình mới. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa IX đã đưa ra khái niệm “đối tượng”, “đối tác”. Theo đó, những ai chủ trương tôn trọng độc lập chủ quyền, thiết lập quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của Việt Nam. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam đều là đối tượng đấu tranh. Với tư duy biện chứng, trong mỗi đối tượng vẫn có mặt cần tranh thủ, hợp tác, trái lại, trong mỗi đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn về lợi ích nên cần phải có biện pháp và hình thức đấu tranh thích hợp.
Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường”(14).
Với tư tưởng đó, Đảng ta đã nâng lý luận về mối quan hệ biện chứng giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế lên một tầm cao mới, soi sáng cho việc hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại trong thời kỳ mới.
Có thể nói, tư tưởng chỉ đạo đối ngoại trên đây, với tính đúng đắn của nó, đã được khẳng định một cách xuyên suốt qua các kỳ Đại hội VIII, IX, X và XI của Đảng. Tại Đại hội XI, Đảng ta chỉ rõ: “Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương mở rộng hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển, hòa bình, hợp tác và phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao vị thế đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Tiếp tục đưa các quan hệ quốc tế của đất nước đi vào chiều sâu trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực và bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế. Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh, kinh tế song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc. Củng cố, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các nước láng giềng. Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng cộng đồng ASEAN vững mạnh; tăng cường quan hệ với các đối tác trong khuôn khổ hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả và các chính đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích, độc lập, tự chủ của đất nước. Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước, đối ngoại nhân dân; đối ngoại quốc phòng và an ninh; chính trị đối ngoại, kinh tế và văn hóa đối ngoại”(15).
 Cho đến nay, sau gần 30 năm đổi mới, “chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước thực hiện thành công bước đầu công cuộc đổi mới, ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã được tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường xã hội chủ nghĩa”(16).
“Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần tạo ra thế và lực mới của đất nước. Phát triển quan hệ với các nước láng giềng; thiết lập và nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác quan trọng. Hoàn thành phân giới cắm mốc trên đất liền với Trung Quốc; tăng dày hệ thống mốc biên giới với Lào; hoàn thành một bước phân giới cắm mốc trên đất liền với Cam-pu-chia; bước đầu đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc và thúc đẩy phân định biển phía Tây Nam với các nước liên quan. Tham gia tích cực và có trách nhiệm tại các diễn đàn khu vực và quốc tế; đảm nhiệm tốt vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; đóng góp quan trọng vào việc xây dựng cộng đồng Hiệp hội các các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Hiến chương ASEAN, đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội đồng liên nghị viện các nước Đông Nam Á (AIPA). Quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, đảng cánh tả, đảng cầm quyền và một số đảng khác; hoạt động đối ngoại nhân dân tiếp tục được mở rộng. Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài đạt kết quả tích cực. Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế; đối thoại cởi mở, thẳng thắn về tự do, dân chủ, nhân quyền.
Nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ký kết hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương với một số đối tác quan trọng; mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác với các đối tác; góp phần quan trọng vào việc tạo dựng và mở rộng thị trường hàng hóa, dịch vụ và đầu tư của Việt Nam, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tranh thủ vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và các nguồn tài trợ quốc tế khác”(17).
Triển khai thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới sáng tạo và đúng đắn, đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 174 nước, trong đó bao gồm tất cả các nước lớn, có quan hệ thương mại với hơn 220 nước và vùng lãnh thổ, là thành viên chính thức của tất cả các tổ chức quốc tế lớn, các tổ chức và định chế thương mại, tài chính chủ chốt ở khu vực cũng như trên thế giới. Hoạt động đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế được đặc biệt quan tâm. Đến nay, nước ta đã thu hút được gần 9 nghìn dự án FDI với tổng số vốn đăng ký vượt trên 100 tỷ USD. Bên cạnh các thị trường chủ lực là Nhật Bản, ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, EU, Hoa Kỳ, Ô-xtrây-li-a, hiện nay, hàng hóa Việt Nam đã vươn ra củng cố vị trí trên nhiều thị trường khác như Nga, Trung Đông, Mỹ La-tinh và châu Phi…
Thực tiễn gần 30 năm đổi mới đã kiểm chứng tính đúng đắn và sáng tạo trong các quan điểm, chủ trương của Đảng về các vấn đề liên quan tới độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế. Quan điểm và chính sách kiên trì độc lập tự chủ của Đảng ta luôn luôn được cụ thể hóa, bổ sung và phát triển theo sự chuyển biến của tình hình trong nước và quốc tế. Điều đó đã mở đường cho quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng, phục vụ thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trước những biến động khó lường của tình hình thế giới, Đảng ta cũng nhấn mạnh trong hội nhập quốc tế, phải luôn chủ động thích ứng với những thay đổi của tình hình, giữ vững hòa bình, và lợi ích dân tộc.   
Trước một thế giới đang biến đổi nhanh chóng, ngày nay, chúng ta cần học tập tư tưởng của cha ông “hòa nhi bất đồng”. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế học hỏi tất cả những gì cần thiết cho phát triển, nhằm hiện diện trước nhân loại, nhưng với bản sắc của chính mình. Điều này cũng đã được thể hiện trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khi Người nhận rõ, phải giương cao ngọn cờ dân tộc để cố kết mọi người Việt Nam, phải học tập tất cả những tinh hoa văn hóa nhân loại cần thiết cho mỗi người, cho dân tộc. Đó chính là điều Người mong muốn trong Di chúc: “Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(18)./.
-----------------------------------
1. Những tư liệu dẫn trên đều được ghi chép trong các sử sách của Trung Quốc thời trước như Sử ký Tư Mã Thiên, Hậu Hán thư, Việt kiện thư... Dựa theo sử sách của trung Quốc, các sử gia Việt Nam cũng đã ghi lại những sự kiện trên trong: Lĩnh Nam trích quái, Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, t. 1 tr. 134
3, 4. Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb. Sử học, Hà Nội, 1961, tập III, tr. 135
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t. 4, tr. 74
6. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký với Pháp Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, rồi Tạm ước 14-9-1946 (chấp nhận tạm hòa hoãn với Pháp gạt Tưởng, diệt bọn tay sai, chuẩn bị lực lượng cho kháng chiến).
7. Xem: Văn kiện Đảng 1945-1954, Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội, 1978, t. 1, tr. 179
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 4, tr. 56
9, 10. Xem: Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị khóa VI, ngày 20-5-1988
11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 147
12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 18
13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII,  Hà Nội, 1992, tr. 5
14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 43
15, 16, 17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 46-47, tr. 20-21, tr. 156-157
18. Hồ Chí Minh: Di chúc, Hà Nội, 1969
PGS, TS. Nguyễn Hoài VănHọc viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh



Giáo dục Việt Nam trước đòi hỏi đổi mới căn bản và toàn diện
22:54' 18/12/2013
TCCS- Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996), Đảng đã quyết định đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu này, phát huy đến mức cao nhất nguồn lực con người được coi là nhân tố quyết định, trong đó giáo dục - đào tạo là đòn bẩy quan trọng nhất. Nhưng cho đến nay, giáo dục và đào tạo nước ta vẫn chưa thực sự là quốc sách hàng đầu để làm động lực quan trọng nhất cho phát triển. Nhiều hạn chế, yếu kém của giáo dục và đào tạo đã được nêu từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII vẫn chưa được khắc phục cơ bản, có mặt nặng nề hơn. Chính vì vậy mà đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đang trở thành một yêu cầu khách quan và cấp bách trong giai đoạn hiện nay.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII đã ra Nghị quyết về định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000. Sau 16 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII, giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu không nhỏ, góp phần quan trọng vào thành công của sự nghiệp đổi mới và đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo.

Tuy nhiên, như nhận định trong Kết luận Hội nghị Trung ương 6 khóa XI, đến nay giáo dục và đào tạo nước ta vẫn chưa thực sự là quốc sách hàng đầu để làm động lực quan trọng nhất cho phát triển. Những hiện tượng liên quan đến hạn chế và yếu kém trong giáo dục và đào tạo được phản ánh ngày càng nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, tạo nên những bức xúc có chiều hướng ngày càng tăng trong công luận. Chính vì vậy, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo thành công còn có ý nghĩa củng cố lòng tin vào Đảng và tương lai của dân tộc.

Có một câu hỏi đặt ra khiến nhiều người băn khoăn là phải chăng chúng ta tiến hành đổi mới căn bản và toàn diện là do giáo dục, đào tạo nước ta tụt hậu quá xa so với thế giới và, những hạn chế, yếu kém tới mức nếu không “làm lại từ gốc” (theo cách diễn đạt của một số ý kiến) thì hậu quả khôn lường?

Đúng là nền giáo dục của chúng ta đang bất cập trước những yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng và sẽ có nhiều vấn đề phải giải quyết trong quá trình thực hiện Đề án đổi mới giáo dục và đào tạo, nhưng nếu chỉ vì khắc phục sự yếu kém và lạc hậu, một bài toán của riêng ta, thì có lẽ chưa phải tầm của công cuộc đổi mới lần này.

Những nhân tố mới tác động đến giáo dục

Trước hết, phải thấy trong mấy thập niên gần đây đổi mới giáo dục, đào tạo là xu thế toàn cầu. Vào những thập niên cuối của thế kỷ XX, khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão, tạo ra những bước tiến nhảy vọt, đặc biệt trong các lĩnh vực điện tử - viễn thông, tin học và công nghệ thông tin. Những thành tựu của sự phát triển này đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội trong từng quốc gia và trên phạm vi toàn cầu làm thay đổi, nếu không nói là đảo lộn nhiều triết lý, quan niệm, phương thức tổ chức và hoạt động của hầu hết các lĩnh vực, mà trước hết và chủ yếu lại chính là giáo dục và đào tạo.

Tri thức mới được tạo ra với cấp số nhân, được phổ biến nhanh và rộng đến mức không hình dung được lại có thể lưu giữ những khối lượng khổng lồ bằng những phương tiện vô cùng gọn nhẹ và việc tìm kiếm, sử dụng dễ dàng đến mức trẻ em cũng có thể làm được... Trong bối cảnh ấy kiến thức chuyên môn cụ thể rất nhanh lạc hậu, cái mới luôn có cái mới hơn thay thế trong một thời gian ngắn. Đã xuất hiện và trở nên rất phổ biến các lớp học điện tử, thư viện điện tử, các chương trình đào tạo từ xa, hội nghị trực tuyến... Cho đến hôm nay việc tìm kiếm thông tin, kiến thức và giao lưu qua mạng đã trở nên phổ biến hơn rất nhiều so với việc đọc sách, báo giấy trước đây.

Các nước, bắt đầu từ những nước có nền khoa học phát triển, từ nhiều thập niên gần đây đã tiến hành xem xét lại toàn bộ hệ thống giáo dục của mình và một chuyển biến tương đối rõ là họ chuyển dần từ dạy kiến thức chuyên môn sang dạy cách tự học. Việc học tập không chỉ thực hiện ở nhà trường mà có thể ở nhà hoặc ở bất cứ đâu. Cơ hội học tập không chỉ dành cho lứa tuổi cắp sách đến trường mà với bất cứ ai. Triết lý xã hội học tập, học suốt đời dần hình thành.

Về phương diện công nghệ, với sự trợ giúp của các thiết bị công nghệ thông tin (mà phổ biến là máy vi tính xách tay) với các phần mềm ứng dụng vô cùng phong phú thì rất nhiều kiến thức trước đây thầy cần rất nhiều thời gian và công sức để dạy và trò phải vô cùng vất vả để nhớ thì nay chỉ cần biết có nó và nó có thể dùng vào việc gì, còn những chi tiết, thậm chí cả những thao tác để tính toán tìm ra kết quả chỉ cần vài cái “click” là xong. Trí tuệ con người được dùng vào việc sáng tạo.

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, trong những thập niên gần đây thế giới cũng diễn ra những biến động vô cùng mạnh mẽ. Từ những biến đổi về khí hậu, những thay đổi theo chiều hướng ngày càng đáng báo động của tình trạng cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái đến những biến động chính trị, quân sự khôn lường đã đặt ra yêu cầu phải trang bị cho các thế hệ tương lai năng lực thích ứng cao trước mọi biến động của thời cuộc và trách nhiệm của những công dân toàn cầu. Không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều trường đại học trên thế giới có những đơn vị nghiên cứu và đạo tạo với tên gọi Trung tâm Biến đổi toàn cầu (The Center for Global Changes).

Về một phương diện khác, sự tha hóa đạo đức trong xã hội (không trừ một nước nào) đang tạo nên những bức xúc, đòi hỏi hệ thống giáo dục phải điều chỉnh theo hướng tăng mạnh việc trang bị nền tảng văn hóa, kỹ năng sống và các giá trị đạo đức cho người học. Chưa bao giờ yêu cầu dạy làm người cấp bách như bây giờ.

Tri thức là của chung nhân loại. Giáo dục, đào tạo là truyền thụ kiến thức nên từ bản chất lĩnh vực này đã chứa đựng thuộc tính không biên giới. Tuy nhiên, bất cứ nền giáo dục nào cũng lại chịu sự chi phối rất mạnh của văn hóa dân tộc và những bệ đỡ tư tưởng xuất phát từ những ý thức hệ khác nhau, nên trong một thời gian dài từng tồn tại sự khác biệt rất xa về cấu trúc hệ thống giáo dục và cấu tạo chương trình. Quá trình toàn cầu hóa diễn ra như một xu thế không thể cưỡng lại, nhất là từ sau khi Liên bang Xô-viết tan rã và hệ thống phe xã hội chủ nghĩa sụp đổ, các nước (kể cả Tây Âu và Bắc Mỹ) đều xem xét lại hệ thống giáo dục của mình và tiến hành rất nhiều điều chỉnh mang tính cải cách.

Đổi mới giáo dục và đào tạo, vì vậy phải được xem là xu thế mang tính toàn cầu. Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó. Trong ý nghĩa này, công cuộc đổi mới giáo dục và đào tạo ở Việt Nam không chỉ là vấn đề của riêng ta mà phải thực sự “nhúng” sâu trong môi trường quốc tế.

Trong bối cảnh nêu trên, giáo dục và đào tạo của ta đang đứng ở đâu?

Bên cạnh những thành tựu rất có ý nghĩa như Kết luận Hội nghị Trung ương 6 khóa XI đã nêu, nhiều hạn chế, yếu kém của giáo dục và đào tạo đã được nêu từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII vẫn chưa được khắc phục cơ bản, có mặt nặng nề hơn, theo tôi, có thể thấy trên các mặt sau đây:

Thứ nhất, chúng ta đã dừng quá lâu ở một nền giáo dục chú trọng trang bị kiến thức chuyên môn. Các chương trình đào tạo từ phổ thông đến đại học, sau đại học đều dày đặc các kiến thức cụ thể. Với lượng tri thức mới được sản sinh ngày càng nhiều và liên tục được cập nhật vào chương trình thì tình trạng quá tải là không thể khắc phục, nếu không nói là sẽ ngày càng trầm trọng hơn. Việc nhớ những kiến thức ấy đã khó, vận dụng nó vào cuộc sống lại còn khó hơn. Tri thức cụ thể dù cho mới đến đâu vẫn là cái đã biết nên luôn lạc hậu so với thực tiễn.

Theo triết lý trọng kiến thức chuyên môn nên các trường đại học ở Việt Nam được tổ chức theo hệ thống đại học chuyên ngành. Mỗi ngành hay một khối ngành có một (một số) trường đại học, như Đại học Thủy lợi, Đại học Xây dựng, Đại học Nông nghiệp, Đại học Kiến trúc, Đại học Y, Đại học Dược,...(1) Những trường đại học chuyên ngành đã đáp ứng rất tốt nhu cầu nhân lực cho nền kinh tế kế hoạch hóa trước đây, nhưng đang bộc lộ những bất cập trước nhu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh kinh tế thị trường. Nhiều trường đang tự phát triển theo hướng đa ngành hóa. Hạn chế của những trường chuyên ngành (đơn ngành) còn ở chỗ hạn chế việc nghiên cứu và giảng dạy theo hướng liên ngành và rất thiếu sự bổ sung cho nhau giữa nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng.

Để phục vụ mục tiêu giáo dục trang bị kiến thức chuyên môn, hệ thống phân loại môn chính, môn phụ cũng được tiến hành một cách giản đơn như đương nhiên phải thế (trong khi đó phương châm của Đảng là giáo dục toàn diện)(2). Đặc biệt nghiêm trọng là hệ thống thi cử, đánh giá. Coi việc nhớ kiến thức chuyên môn là quan trọng nhất nên việc thi cử tuyển đầu vào, kiểm tra trong quá trình học tập và đánh giá đầu ra đều lấy việc hỏi kiến thức cụ thể làm mục tiêu chủ yếu. Phương thức thi cử nhằm đánh giá kiến thức chuyên môn (cụ thể) sinh ra hệ lụy nan giải và những căn bệnh trầm kha khó lòng cứu chữa. Đó là học vẹt, học tủ quay cóp. 

Cách thức thi cử như vậy không giúp phát hiện được những người có năng lực thực sự mà chủ yếu chọn được những người có trí nhớ tốt (kỹ năng này cũng rất quý, nhưng không giúp nhiều lắm cho năng lực sáng tạo và dường như ngày càng bớt quan trọng trong thời đại công nghệ thông tin phát triển). Đó là chưa kể tới hậu quả chọn nhầm phải người lười (học tủ), người gian (quay cóp).

Thứ hai, do phải mất quá nhiều thời gian và công sức để “cung cấp và tích lũy kiến thức” cụ thể (luôn quá tải) nên từ chương trình, người dạy, người học đều không còn đủ thời gian và sự quan tâm đúng mức cho việc trau dồi phương pháp, kỹ năng, học để hiểu biết về cuộc sống, về thế giới, dung dưỡng tâm hồn và đạo đức, lối sống… Nói tóm lại là học cách tự học và học làm người. Điều đáng lo ngại là xu thế vị bằng cấp đang trở nên ngày càng phổ biến trong cộng đồng những người đi học. Đi học chỉ cốt để lấy bằng (và tệ hơn là nếu học ít, thậm chí không học mà vẫn có bằng thì càng hay). Nhiều bậc trí giả lo lắng không phải không có cơ sở là xã hội ta ngày càng nhiều những người có học vị, bằng cấp cao, nhưng một đội ngũ trí thức với những nhân cách đáng kính dường như ngày càng thưa vắng. Hiện tượng này có nhiều nguyên nhân, nhưng căn nguyên chính vẫn là từ chính những hạn chế và yếu kém của giáo dục, đào tạo.

Thứ ba, một hạn chế lớn của giáo dục và đào tạo nước ta là việc dạy và học không gắn chặt với thực tiễn, nhất là các trường đại học. Đa phần các chương trình đào tạo hiện nay là những gì nhà trường và các thầy có đem áp đặt cho người học, chứ chưa phải là những cái xã hội cần. Có một nguyên nhân quan trọng là ở nước ta trong một thời gian dài, cung và cầu của giáo dục đại học mất cân đối nghiêm trọng. Việt Nam là nước có truyền thống hiếu học và trọng học nên số người có nguyện vọng đi học (đúng ra là số gia đình mong muốn con vào đại học) thì đông mà số trường đại học (tốt) lại rất ít nên các cơ sở đào tạo đại học không có nhiều động lực để đổi mới. Chương trình cũ, phương pháp dạy không thay đổi, chất lượng đào tạo không nâng cao cũng vẫn có rất đông người học. Những tiêu chí đánh giá về chất lượng giáo dục quốc tế dường như ảnh hưởng không nhiều lắm đến các trường đại học nước ta.

Thứ tư, cũng chính vì động lực đổi mới không cao và do một số nguyên nhân khác nữa, nền giáo dục của chúng ta tương đối khép kín. Mặc dù số lượng cán bộ của ngành giáo dục (bao gồm cả quản lý và tham gia giảng dạy) có cơ hội đi tham quan nước ngoài rất nhiều, nhưng dường như việc học tập kinh nghiệm nước ngoài chưa có một chương trình thật bài bản với những mục tiêu xác định nên kết quả không như mong muốn. Địa điểm tham quan, vấn đề tìm hiểu trùng lặp, những kinh nghiệm tiếp thu manh mún, thiếu đồng bộ... Do vậy về cơ bản, hệ thống giáo dục và các chương trình của các cơ sở đào tạo ở nước ta so với các nước tiên tiến trên thế giới còn có khoảng cách khá xa. Và điều đặc biệt đáng nói là tính liên thông quốc tế của hệ thống giáo dục nói chung và của các cơ sở đào tạo nước ta nói riêng còn rất hạn chế. Nếu như ở nước ngoài (kể cả các nước Đông Nam Á), các trường đại học có thể dễ dàng trao đổi sinh viên với nhau vì họ công nhận hệ thống tín chỉ của nhau, thì điều này còn rất khó khăn với các trường đại học nước ta.

Sự liên thông trong nước cũng còn không ít vấn đề. Đó là sự phân luồng trong giáo dục phổ thông trung học, sự liên thông giữa các cấp học... Điều này khiến cho nền giáo dục chưa phát huy hết được vị trí và vai trò của mình.

Thứ năm, điều thấy rõ và thường được nói tới nhiều nhất khi đề cập đến những hạn chế của giáo dục Việt Nam là sự thiếu thốn, nghèo nàn về cơ sở vật chất, chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng đối với đội ngũ những người làm giáo dục. Có thể nói trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có những cố gắng lớn trong đầu tư cho giáo dục. Riêng năm 2013, mặc dù nền kinh tế đất nước đang trong thời kỳ cực kỳ khó khăn, nhưng kinh phí cho lĩnh vực giáo dục, đào tạo và dạy nghề vẫn chiếm 20% tổng chi ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, tính ra số kinh phí thực thì so ngay với một số trường đại học ở các nước Đông Nam Á (như Xin-ga-po, Thái Lan, Ma-lai-xi-a...) cũng đã rất thấp. Nguồn kinh phí hạn hẹp lại được sử dụng chưa hợp lý, đầu tư manh mún, dàn trải và hiệu quả thấp, đó là chưa nói tới nguồn lực bị suy hao vì những dự án lãng phí lớn(3).

Tuy nhiên, điều đáng nói hơn cả là vấn đề đầu tư cho nguồn lực con người. Nếu như đây là nhân tố quan trọng hàng đầu trong tất cả mọi lĩnh vực, thì trong giáo dục và đào tạo con người là nhân tố quyết định sự thành bại. Con người ở đây là nói tới cả đội ngũ quản lý các cấp và những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ giảng dạy ở các cơ sở. Chất lượng chưa cao ở cả hai lực lượng này dường như không khó khăn lắm để nhận ra. Tuy nhiên điều quan trọng là phải tìm ra nguyên nhân dẫn tới tình trạng đó. Theo tôi, gốc gác của vấn đề chính là trên thực tế giáo dục và đào tạo chưa được coi là quốc sách hàng đầu. Việc tuyển chọn cán bộ quản lý giáo dục cũng như chính sách đãi ngộ khuyến khích người giỏi làm công tác giáo dục còn nhiều bất cập và chưa được chú ý đúng mức.

Trong những năm gần đây, ngành giáo dục và đào tạo đã triển khai khá mạnh mẽ chủ trương xã hội hóa giáo dục. Đây là một chủ trương rất đúng đắn và rất phù hợp với Việt Nam, một dân tộc có truyền thống trọng học. Tuy nhiên, chính sách đúng đắn này dường như đang bị lợi dụng theo hướng nhân danh sự nghiệp trồng người cao cả, núp dưới danh nghĩa phi lợi nhuận, không ít cá nhân và nhóm người đang trục lợi trong việc thành lập các cơ sở giáo dục tư nhân kém chất lượng. Việc cho phép mở ồ ạt nhiều trường đại học mà cơ sở vật chất còn dưới chuẩn trên thực tế cũng là điều đáng suy nghĩ.

Năm điểm nêu trên chưa phải là tất cả, và như đã nói, không phải là tổng kết về thực trạng của giáo dục Việt Nam, nhưng đứng trước yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo, theo tôi, đây là những vấn đề cần tập trung giải quyết.

Những vấn đề căn bản cần phải đổi mới 

Trước tiên, thay đổi triết lý để chuyển một nền giáo dục lấy trang bị kiến thức chuyên môn làm mục tiêu chủ yếu sang một nền giáo dục chỉ dạy những kiến thức chuyên môn căn bản ở mức tối thiểu. Dành nhiều thời gian dạy người học về phương pháp, kỹ năng, cách tự học, dạy cách sử dụng, khai thác các thiết bị… và dạy làm người với mục đích người được đào tạo có khả năng thích ứng nhanh với hoàn cảnh, có khả năng học tập suốt đời và có trách nhiệm cao với gia đình, xã hội và Tổ quốc.

Đi theo sự đổi mới này sẽ là hàng loạt những thay đổi căn bản. Từ chương trình, giáo trình, sách giáo khoa, người thầy và cách thức giảng dạy. Theo triết lý mới này, cách dạy và học sẽ chuyển từ học để nhớ sang học để hiểu.

Thứ hai, thay đổi một cách căn bản hệ thống đánh giá từ kiểm tra kiến thức sang đánh giá năng lực. Đầu vào thì đánh giá năng lực có học được (cấp học, chương trình học ấy) không. Trong quá trình thì đánh giá năng lực hiểu và tiếp thu sáng tạo những điều đã học. Đầu ra thì đánh giá năng lực vận dụng những điều đã học tập, rèn luyện vào môi trường sắp tới... Tóm lại phải thay đổi căn bản những gì đang làm hiện nay trong việc thi cử, đánh giá. Sự thay đổi này sẽ mở đường cho một giai đoạn mới, người thi sẽ được sử dụng các thiết bị công nghệ thông tin (như máy vi tính chẳng hạn), sử dụng mạng in-tơ-nét... Việc tổ chức thi sẽ nhẹ nhàng, đơn giản và sẽ không còn hiện tượng học vẹt, học tủ hay quay cóp nữa.

Thứ ba, việc xây dựng các chương trình giảng dạy phải có chuẩn đầu ra. Chuẩn đầu ra ở đây là phải lấy thực tế khách quan và yêu cầu của xã hội làm căn cứ, chứ không phải là “chuẩn” do nhà trường tự quy định như nhiều cơ sở đào tạo đang làm. Như vậy chuẩn đầu ra phải hiểu là đáp ứng nhu cầu rất đa dạng cả về chủng loại và chất lượng.

Giáo dục đại học và chuyên nghiệp là nơi đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực các loại cho xã hội. Sự đa dạng yêu cầu về chủng loại và chất lượng lao động sẽ quy định chủng loại và sự phân tầng của các cơ sở đào tạo. Bên cạnh những yêu cầu chất lượng rất cao của các cơ sở hàng đầu, có yêu cầu vừa phải của các cơ sở không có nhu cầu đến mức ấy. Cho nên phải có cách nhìn phân tầng đối với giáo dục đại học. Trong ý nghĩa này nhất loạt hô khẩu hiệu “chất lượng cao” là duy ý chí, không thực tế và cũng không phù hợp với thực tiễn.

Thứ tư, có sự phân biệt căn bản giữa giáo dục phổ thông và giáo dục đại học (bao gồm cả sau đại học). Trong một thời gian dài sự phân biệt này chỉ là hình thức. Không phải vô cớ mà nhiều bậc trí giả ví von một cách hài hước, nhưng lại rất chính xác là đại học Việt Nam là phổ thông cấp 4. Quả thực, ở bậc trên đại học, sinh viên cũng chỉ học những kiến thức chuyên môn chưa học ở các lớp phổ thông, còn cách dạy cách học không khác mấy so với học phổ thông.

Điều khác căn bản giữa giáo dục phổ thông và giáo dục đại học là ở chỗ giáo dục phổ thông là dạy những kiến thức đã ổn định, trang bị nền tri thức và rèn luyện những phẩm chất cơ bản cho công dân, còn giáo dục đại học chủ yếu lại là đào tạo nguồn nhân lực có năng lực sáng tạo và ngay trong quá trình học tập đã tham gia sáng tạo tri thức mới. Ở các nước tiên tiến, những phát minh và giải thưởng khoa học quốc tế lớn đều từ các trường đại học là do đặc điểm này của đại học. Chính từ thuộc tính này mà quyền tự chủ của các trường đại học, trước hết là tự chủ về học thuật, là điều kiện tiên quyết để giáo dục đại học phát triển. Tự chủ phải gắn liền với tự chịu trách nhiệm. Hãy để các trường đại học tự chăm lo lấy thương hiệu và uy tín của mình. Quản lý nhà nước là vô cùng quan trọng và cần thiết, nhưng nếu không xác định được đầy đủ nội hàm của công tác này mà tăng cường quản lý của Nhà nước với rất nhiều những quy trình khắt khe thì chưa chắc đã đem lại kết quả như mong muốn. Không cẩn thận sẽ khiến cho các cơ sở đào tạo ỷ lại, ỷ thế rồi khéo léo lách qua những quy định... Khi ấy toàn bộ trách nhiệm lại được đổ lên các cơ quan quản lý.

Thứ năm, để có thể tiến hành đổi mới một cách căn bản thì giải pháp phải đồng bộ và toàn diện. Trước hết là những đổi mới về cơ chế, chính sách. Trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay của đất nước, không nên đặt vấn đề tăng thêm ngân sách cho giáo dục và đào tạo mà có chính sách phân phối nguồn lực cho hợp lý. Trong quá trình này, đầu tư tập trung và đầu tư hiệu quả được coi là ưu tiên. Cần chấm dứt việc đầu tư dàn trải và kém hiệu quả như hiện nay. Ngoài những cơ chế chính sách về tài chính, phải đổi mới hàng loạt các cơ chế chính sách khác có liên quan đến giáo dục, đào tạo, sao cho giáo dục và đào tạo thực sự là quốc sách hàng đầu.

Vấn đề quyết định cho thành công của sự nghiệp đổi mới giáo dục là chính sách cán bộ. Chọn đúng người, giao đúng việc và có những chính sách thu hút người giỏi vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo sẽ đưa giáo dục nước nhà bước vào một thời kỳ phát triển mới./.

----------------------------------

(1) Theo xu hướng này, năm 2002 đã xuất hiện ở Hà Nội Đại học Răng-Hàm-Mặt. Trường này nhanh chóng phát triển với quy mô lên tới hơn 22.000 sinh viên. Nhưng do sớm bộc lộ tính chất bất hợp lý nên đã bị giải thể vào năm 2009.

(2) Chẳng hạn như luôn nói môn Lịch sử là quan trọng, nhưng bị coi là môn phụ thì học sinh không thể coi trọng bằng môn chính và đối với những học sinh dự định không thi khối C vào đại học thì có thể đương nhiên chểnh mảng, thậm chí không học môn này trong những năm cuối phổ thông trung học.

(3) Xem: Việt Nam net, trang Giáo dục ngày 21-7-2013
Vũ Minh GiangGS, TSKH, Đại học Quốc gia Hà Nội
Phát triển bền vững ở Việt Nam
22:41' 3/1/2014
TCCS - Trên nhiều diễn đàn và văn kiện của cộng đồng quốc tế cũng như trong các chính sách, chương trình hành động của các quốc gia, vấn đề phát triển bền vững đang nổi lên như một trong những mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại. Ở Việt Nam, phát triển bền vững là một trong những nội dung cơ bản để thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng là mục tiêu quan trọng hàng đầu mà nền kinh tế hướng tới.

Trên bình diện toàn thế giới hay tại mỗi khu vực và ở mỗi quốc gia xuất hiện biết bao vấn đề bức xúc lại mang tính phổ biến. Kinh tế càng tăng trưởng thì tình trạng khan hiếm các loại nguyên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên không tái tạo được ngày càng tăng thêm, môi trường thiên nhiên càng bị hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá vỡ, dẫn tới sự trả thù của thiên nhiên gây ra những thiên tai vô cùng thảm khốc.

Đó là sự tăng trưởng kinh tế không cùng nhịp với tiến bộ và phát triển xã hội, đôi khi ngược chiều với phát triển xã hội. Cụ thể là, có tăng trưởng kinh tế nhưng không có tiến bộ và công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, đô thị hóa, dẫn tới làm méo mó nông thôn; tăng trưởng kinh tế nhưng thu nhập của người lao động không tăng; tăng trưởng kinh tế nhưng văn hóa, đạo đức bị suy đồi; tăng trưởng kinh tế lại làm dãn cách hơn sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, dẫn tới sự bất ổn trong xã hội và điều này đã trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng ở nhiều quốc gia. Vậy nên, quá trình phát triển có sự điều tiết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với bảo đảm bình ổn xã hội và bảo vệ môi trường đang trở thành yêu cầu bức thiết đối với toàn thế giới.

Phát triển bền vững

Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời sống xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững manh nha trong cả quá trình sản xuất xã hội và bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm quan trọng của bảo vệ môi trường và tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết những bất ổn trong xã hội. Chính vì thế, năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Ri-ô đơ Gia-nê-rô đề ra Chương trình nghị sự toàn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững được xác định là: “Một sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai”. Theo đó, ba trụ cột phát triển bền vững được xác định là: Thứ nhất, bền vững về mặt kinh tế, hay phát triển kinh tế bền vững là phát triển nhanh và an toàn, chất lượng; Thứ hai, bền vững về mặt xã hội là công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh; Thứ ba, bền vững về sinh thái môi trường là khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng môi trường sống.

Cho tới nay, quan niệm về phát triển bền vững trên bình diện quốc tế có được sự thống nhất chung và mục tiêu để thực hiện phát triển bền vững trở thành mục tiêu thiên niên kỷ.

Ở Việt Nam, chủ đề phát triển bền vững cũng đã được chú ý nhiều trong giới nghiên cứu cũng như những nhà hoạch định đường lối, chính sách. Quan niệm về phát triển bền vững thường được tiếp cận theo hai khía cạnh: Một là, phát triển bền vững là phát triển trong mối quan hệ duy trì những giá trị môi trường sống, coi giá trị môi trường sinh thái là một trong những yếu tố cấu thành những giá trị cao nhất cần đạt tới của sự phát triển. Hai là, phát triển bền vững là sự phát triển dài hạn, cho hôm nay và cho mai sau; phát triển hôm nay không làm ảnh hưởng tới mai sau.

Trong mục 4, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường, phát triển bền vững được định nghĩa: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”. Đây là định nghĩa có tính tổng quát, nêu bật những yêu cầu và mục tiêu trọng yếu nhất của phát triển bền vững, phù hợp với điều kiện và tình hình ở Việt Nam.

Từ nội hàm khái niệm phát triển bền vững, rõ ràng là, để đạt được mục tiêu phát triển bền vững cần giải quyết hàng loạt các vấn đề thuộc ba lĩnh vực là kinh tế, xã hội và môi trường.

Thứ nhất, bền vững kinh tế. Mỗi nền kinh tế được coi là bền vững cần đạt được những yêu cầu sau:

- Có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển có thu nhập cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu nhập thấp càng phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem có biểu hiện phát triển bền vững về kinh tế.

- Trường hợp có tăng trưởng GDP cao nhưng mức GDP bình quân đầu người thấp thì vẫn coi là chưa đạt yêu cầu phát triển bền vững.

- Cơ cấu GDP cũng là vấn đề cần xem xét. Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP cao hơn nông nghiệp thì tăng trưởng mới có thể đạt được bền vững.

- Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, không chấp nhận tăng trưởng bằng mọi giá.

Thứ hai, bền vững về xã hội. Tính bền vững về phát triển xã hội ở mỗi quốc gia được đánh giá bằng các tiêu chí, như HDI, hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Ngoài ra, bền vững về xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hòa; có sự bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo không cao quá và có xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn.

Thứ ba, bền vững về môi trường. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nông nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới,... đều tác động đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, điều kiện tự nhiên. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự nhiên đó, chất lượng môi trường sống của con người phải được bảo đảm. Đó là bảo đảm sự trong sạch về không khí, nước, đất, không gian địa lý, cảnh quan. Chất lượng của các yếu tố trên luôn cần được coi trọng và thường xuyên được đánh giá kiểm định theo những tiêu chuẩn quốc gia hoặc quốc tế.

Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam và những kết quả ban đầu 

Bắt nhịp bước đi của thời đại, Đảng và Chính phủ đã sớm nhận thức tầm quan trọng của phát triển bền vững. Ngày 25-6-1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 36-CT/TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong các văn kiện Đại hội IX, X, và đặc biệt là văn kiện Đại hội XI của Đảng, quan điểm phát triển bền vững càng được chú trọng hơn và nhấn mạnh nhiều lần trên nhiều góc độ tiếp cận. Để chỉ đạo thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Đảng ta đã đưa ra 5 quan điểm phát triển, trong đó, quan điểm đầu tiên là: “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”.

Thực hiện quan điểm của Đảng, căn cứ vào Chương trình hành động thế kỷ XXI của quốc tế, ngày 17-8-2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 154/2004/QĐ-TTg “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” (còn gọi là Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam nêu bật những vấn đề đang đặt ra trong ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường, những thách thức mà nước ta đang phải đối phó. Chiến lược đã tạo lập mối quan hệ tương hỗ giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường; đã xác định khung thời gian để thực hiện và gắn trách nhiệm của các ngành, các địa phương, các tổ chức và các nhóm xã hội; đã tính tới việc sử dụng các nguồn lực tổng hợp để thực hiện chiến lược. Chính phủ cũng đã thành lập Hội đồng phát triển bền vững quốc gia để chỉ đạo, giám sát việc thực hiện các mục tiêu đã đề ra.

Mặc dù việc triển khai tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền vững chưa lâu nhưng chúng ta đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, tạo điều kiện thuận lợi cho các bước tiếp theo. Có thể nêu một số nét nổi bật.

Lĩnh vực kinh tế: Tính từ năm 2006 đến hết năm 2011, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 6 năm đạt gần 7%; năm 2012, GDP tăng 5,03%, GDP bình quân đầu người đạt 1.540 USD. Cơ cấu kinh tế cũng có những bước tiến triển tích cực, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu GDP ngày càng tăng, khu vực nông nghiệp trong cơ cấu GDP ngày càng giảm. An ninh lương thực được bảo đảm. Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực kinh tế đã góp phần tích cực vào việc phát triển bền vững các lĩnh vực khác.

Lĩnh vực xã hội đạt một số chuyển biến tích cực. Đó là sự nghiệp giáo dục có bước phát triển, chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo đạt tới 20% tổng chi ngân sách; đến năm 2011, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn giáo dục trung học cơ sở. Việc giải quyết việc làm đạt kết quả tích cực: trong 6 năm (2006 - 2011), đã giải quyết được việc làm cho hơn 9 triệu lao động. Năm 2012 đã tạo việc làm mới cho hơn 1,5 triệu người; năm 2013, phấn đấu tạo việc làm cho 1,6 triệu người; tuyển mới dạy nghề cho 1,9 triệu người; thực hiện chiến lược dạy nghề gắn với tạo việc làm. Năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 3,53%, ở khu vực nông thôn là 1,55%. Công tác xóa đói, giảm nghèo có nhiều tiến bộ, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,6% và đến cuối năm 2013 ước còn 7,6%. Năm 2012, Việt Nam xếp thứ 127 trên tổng số 187 nước và vùng lãnh thổ về HDI và được xếp vào nhóm có tốc độ tăng chỉ số HDI cao. Việt Nam hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) do Liên hợp quốc đặt ra cho các nước đang phát triển đến năm 2015.

Lĩnh vực môi trường trong những năm qua đã được chú trọng hơn. Việc bảo vệ tài nguyên, môi trường đã đi vào nền nếp. Bằng những chính sách hợp lý, các giải pháp quyết liệt, vấn đề bảo vệ môi trường sống, chống ô nhiễm các nguồn nước, không khí đã được tất cả các địa phương, các ngành và các tầng lớp nhân dân đồng thuận và cùng tham gia. Công tác trồng rừng, bảo vệ rừng được quan tâm hơn nên tình trạng cháy và chặt phá rừng đã giảm đi.

Những vấn đề đặt ra và ba khâu đột phá

Có thể thấy rõ rằng, trong những năm qua, chúng ta đã triển khai và thực hiện khá thành công một số nhiệm vụ để hướng tới phát triển bền vững. Tuy nhiên, những thành tựu và tiến bộ đã đạt được chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Trình độ phát triển kinh tế còn thấp so với các nước trên thế giới và ngay cả một số nước trong khu vực. Xem xét ở ba khía cạnh để tăng trưởng bền vững là: kinh tế, xã hội và môi trường để thấy rõ còn nhiều vấn đề đặt ra cần được giải quyết.

Thứ nhất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung vẫn còn yếu. Tích lũy nội bộ còn thấp; tăng trưởng kinh tế có bước chững lại, thấp hơn mức tăng của những năm trước do di chứng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu. Đầu tư của Nhà nước hiệu quả thấp, còn thất thoát và lãng phí. Tỷ lệ nợ công so với GDP của các năm 2010, 2011, 2012 lần lượt là: 56,8%, 54,9% và 55,6%. Đây là mức nợ tương đối cao. Cho dù tổng khối lượng nợ vẫn được coi là trong ngưỡng an toàn, nhưng tiềm ẩn đằng sau đó là nhiều rủi ro.

Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng hiện tại chưa có chuyển biến đáng kể trong việc đổi mới và phát triển các doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định, còn những yếu tố thiếu vững chắc, các thành phần kinh tế chưa phát huy hết năng lực, chưa thực sự được bình đẳng và yên tâm đầu tư kinh doanh. Cơ chế quản lý, chính sách phân phối có mặt chưa hợp lý, chưa thúc đẩy tiết kiệm, tăng năng suất, kích thích đầu tư phát triển. Hệ thống tài chính, ngân hàng đổi mới chậm, chất lượng hoạt động hạn chế; môi trường đầu tư, kinh doanh còn một số vướng mắc, chưa tạo điều kiện hỗ trợ tốt cho kinh tế phát triển...

Thứ hai, chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế, chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu xã hội. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học còn lạc hậu, chậm đổi mới; cơ cấu đào tạo không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề.

Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý văn hóa còn bất cập; môi trường văn hóa bị xâm hại, thiếu lành mạnh; các tệ nạn xã hội và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh, thiếu niên ở mức đáng lo ngại.

Tình trạng thiếu việc làm còn cao. Chính sách tiền lương, thu nhập chưa động viên được người lao động tận tâm với công việc. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, xóa đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình trạng tái nghèo cao. Khoảng cách chênh lệnh giàu - nghèo còn khá lớn và ngày càng doãng ra.

Chất lượng chăm sóc sức khỏe còn thấp, hệ thống y tế và chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng được yêu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân. Vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ.

Thứ ba, việc xây dựng pháp luật và chính sách bảo vệ môi trường còn thiếu và chậm, thực hiện chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả còn thấp. Môi trường ở nhiều nơi tiếp tục xuống cấp, một số nơi đã tới mức báo động. Chưa có những giải pháp thực thi để đối phó với sự biến đổi khí hậu; hậu quả thiên tai còn nặng nề; tình trạng chặt phá, cháy rừng còn tiếp tục diễn ra. Ô nhiễm nguồn nước, đất, ô nhiễm không khí còn nghiêm trọng ở một số nơi. Chưa huy động được nhiều nguồn lực để bảo vệ môi trường sinh thái và môi trường sống của nhân dân.

Để giải quyết một cách căn bản và toàn diện những vấn đề đang đặt ra ở trên, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã xác định ba khâu đột phá mang tính chiến lược, tạo tiền đề cấu trúc lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và phát triển theo hướng bền vững. Thứ nhất, việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ và hiện đại có tầm quan trọng đặc biệt. Có thể chế đầy đủ, các loại thị trường sẽ phát triển mạnh với sức sống mới, được quản lý và giám sát tốt, môi trường cạnh tranh lành mạnh sẽ làm cho việc phân bổ nguồn lực của đất nước cân bằng, tạo điều kiện để tăng trưởng và phát triển kinh tế có hiệu quả cao. Hệ thống thể chế muốn có chất lượng cao và hoạt động thực tiễn theo thể chế có hiệu quả, cần cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia trên tất cả các nội dung về thể chế, tổ chức bộ máy, thủ tục hành chính và tài chính công gắn với một hệ thống phân cấp hợp lý, hiệu quả, nâng cao chất lượng quản trị công. Mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường cần được giải quyết tốt theo hướng chuyển mạnh từ chỗ Nhà nước điều hành nền kinh tế sang Nhà nước kiến tạo và phát triển. Chức năng của Nhà nước là xây dựng, quy hoạch phát triển theo một chiến lược đúng đắn, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và hội nhập quốc tế, tăng cường giám sát và phát hiện các mất cân đối có thể xảy ra, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và an toàn hệ thống; tập trung hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, bảo đảm mọi người dân đều được hưởng thụ thành quả tăng trưởng. Thứ hai, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Đây là đột phá cội nguồn, quan trọng nhất để làm tăng sức mạnh của quốc gia, tạo ra sức mạnh tổng hợp, có ảnh hưởng quyết định đến việc phát triển kinh tế, ổn định xã hội và bảo vệ môi trường, phục vụ đắc lực cho chiến lược phát triển bền vững. Điểm nhấn mới trong khâu đột phá này là đặt việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự gắn kết với việc phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Chính điều này bảo đảm chuyển tiềm tăng trí tuệ của nguồn nhân lực thành những thành quả ứng dụng và sáng tạo khoa học, công nghệ - động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh, bền vững. Thứ ba, kết cấu hạ tầng là đường dẫn của sự phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện để phân bổ lực lượng sản xuất, thúc đẩy lưu thông hàng hóa. Một hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển đồng bộ sẽ mở rộng không gian phát triển, kết nối các vùng kinh tế, làm tăng quy mô sản xuất và tăng hiệu quả kinh tế. Để thực hiện tốt đột phá này, phải thay đổi cách tiếp cận từ khâu quy hoạch, lựa chọn các ưu tiên đến phương thức huy động nguồn lực và thủ tục triển khai các dự án.

Với những phân tích trên, có thể thấy, phát triển bền vững đã trở thành một phương thức phát triển tổng hợp đa ngành, liên ngành, thành chương trình hành động với nhiều tiêu chí ngày càng được cụ thể và rõ nét. Phát triển bền vững, vì vậy, mang tính tất yếu và là mục tiêu cao đẹp nhất của quá trình phát triển./.
Vũ Văn HiềnGS,TS, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương





Bài học về lựa chọn thời cơ của Cách mạng Tháng Mười Nga và vấn đề hội nhập quốc tế của Việt Nam hiện nay
16:50' 4/11/2013
TCCSĐT - Thắng lợi “rung chuyển thế giới” của Cách mạng Tháng Mười Nga đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Tuy nhiên, để có được thắng lợi vĩ đại đó, những người lãnh đạo cuộc Cách mạng, đứng đầu là V.I. Lê-nin, đã phải lựa chọn và tận dụng thời cơ cách mạng một cách tài tình, mau lẹ.

Vào năm 1917, nước Nga đã bộc lộ là một khâu yếu trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa, bởi vậy, việc xúc tiến và chuẩn bị những điều kiện, tiền đề cần thiết để thực hiện cuộc cách mạng vô sản ở đất nước rộng lớn này là nhiệm vụ cấp thiết hơn bao giờ hết của những người cộng sản và giai cấp công nhân Nga. Tuy nhiên, để đi đến thắng lợi, cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga đã phải trải qua nhiều khó khăn, trở ngại và đứng trước những nguy cơ tưởng chừng không thể vượt qua.

Trước hết, để chuẩn bị về mặt tư tưởng, V.I. Lê-nin cùng Ðảng Cộng sản (Bôn-sê-vích) Nga kiên quyết chống lại tư tưởng, lý luận cách mạng nửa vời của những kẻ cơ hội chính trị và giai cấp tư sản, vạch trần bộ mặt giả dối, phản động của chính phủ tư sản Kê-ren-xki cùng phái Men-sê-vích. Khi thời cơ cách mạng đã đến, Người tổ chức phát động và lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang trong toàn quốc để giành “toàn bộ chính quyền về tay Xô-viết”, nhằm đúng vào lúc nhân dân không thể sống như cũ, vô cùng chán ghét chiến tranh đế quốc và chế độ Nga hoàng; nhiều binh lính không tuân lệnh Chính phủ lâm thời mà ngả theo Đảng Bôn-sê-vích; khí thế cách mạng của các Xô-viết công - nông - binh trên khắp đất nước đang sôi sục; chính phủ tư sản Kê-ren-xki không thể tiếp tục lừa dối nhân dân để tham gia chiến tranh thế giới như cũ.

Trong lúc Đảng Bôn-sê-vích Nga dưới sự lãnh đạo của V.I. Lê-nin đang tích cực chuẩn bị tiến hành cuộc khởi nghĩa vũ trang thì một số phần tử cơ hội trong Đảng đã phản bội, tiết lộ cho kẻ thù biết được kế hoạch khởi nghĩa. Chính phủ lâm thời quyết định tấn công trước vào lực lượng cách mạng. Ngày 24-10-1917 (tức ngày 06-11-1917 theo lịch mới), chúng ra lệnh đóng cửa tờ báo “Con đường” của công nhân. Các đội tự vệ đỏ đã chiến đấu bảo vệ tòa báo và đến trưa cùng ngày, tờ báo phát lời kêu gọi khởi nghĩa để lật đổ Chính phủ lâm thời. Vào đêm hôm đó, V.I. Lê-nin đến Điện Xmôn-nưi để trực tiếp tổ chức lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Người ra bản Chỉ thị nêu rõ thời cơ chín muồi của cách mạng Nga: Vô luận bằng cách nào cũng không được để Kê-ren-xki và bè lũ nắm chính quyền đến ngày 25, việc đó tuyệt đối phải quyết định ngay chiều hôm nay. Lịch sử sẽ không tha thứ những người cách mạng hôm nay có thể chiến thắng (và nhất định sẽ thắng lợi hôm nay) mà lại chậm trễ, vì đợi đến ngày mai, không khéo họ lại bị mất hết cả. Theo lời hiệu triệu của V.I. Lê-nin, đêm 24 rạng ngày 25-10-1917 (tức đêm 06 rạng ngày 07-11-1917 theo lịch mới), quân khởi nghĩa tiến đánh Cung điện Mùa đông. Chiến hạm Rạng Đông nã pháo vào Cung điện, sào huyệt của Chính phủ lâm thời phản động. Cận vệ đỏ của công nhân cùng binh lính cách mạng chiếm giữ những vị trí then chốt ở Thủ đô, nhanh chóng làm chủ tình hình. Các bộ trưởng của Chính phủ lâm thời bị bắt. Cuộc khởi nghĩa ở Pê-trô-grát giành thắng lợi hoàn toàn. Cũng trong đêm đó, Đại hội Xô-viết toàn Nga lần thứ hai đã khai mạc, tuyên bố chính quyền đã về tay các Xô-viết. Đại hội ra quyết nghị: Các Xô-viết đại biểu công nhân, binh lính và nông dân có trách nhiệm bảo đảm trật tự cách mạng. Tối 25-10-1917, trong buổi họp thứ hai, Đại hội thông qua hai văn kiện đầu tiên của chính quyền Xô-viết: Sắc lệnh Hòa bình và Sắc lệnh Ruộng đất. Sắc lệnh Hòa bình lên án chiến tranh, đề nghị các nước tham chiến nhanh chóng đàm phán để ký kết một hòa ước dân chủ và công bằng, không thôn tính đất đai và phải bồi thường chiến tranh. Sắc lệnh Ruộng đất tuyên bố quốc hữu hóa toàn bộ ruộng đất của giai cấp địa chủ, quý tộc. Đại hội đã bầu ra Chính phủ Xô-viết đầu tiên, gọi là Hội đồng Ủy viên nhân dân, do V.I. Lê-nin đứng đầu.

Cuộc khởi nghĩa của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga dưới sự lãnh đạo của Đảng Bôn-sê-vích, do V.I. Lê-nin đứng đầu, đã chớp đúng thời cơ để phát động khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Đó là thời điểm có một không hai cho cách mạng bùng nổ và giành thắng lợi, không thể chậm hơn, dù chỉ một ngày. Cuộc khởi nghĩa diễn ra hết sức mau lẹ, ít tổn thất về lực lượng, làm nên kỳ tích “Mười ngày rung chuyển thế giới”, lật đổ chế độ chuyên chế Nga Sa hoàng, giành chính quyền về tay giai cấp vô sản. Nước Nga Xô-viết do nhân dân làm chủ, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản, đã rút khỏi cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất của chủ nghĩa đế quốc. Song, hậu quả do chiến tranh để lại rất nặng nề, trong khi chính quyền Xô-viết non trẻ lại phải tập trung đối phó và chống lại bọn bạch vệ phản cách mạng và sự can thiệp vũ trang của các nước đế quốc câu kết với nhau hòng bóp chết Nhà nước Xô-viết. Vì vậy, V.I. Lê-nin đã lãnh đạo đất nước áp dụng Chính sách Cộng sản thời chiến, “đồng cam cộng khổ” để giành thắng lợi. Nhờ đó, chính quyền Xô-viết được bảo vệ vững chắc. Sau đó, nước Nga xóa bỏ Chính sách Cộng sản thời chiến, cùng các nước trong Liên bang Xô-viết thực hiện Chính sách Kinh tế mới, làm cho nền kinh tế đất nước phục hồi nhanh chóng, đời sống nhân dân được cải thiện; nền kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng phát triển chưa từng thấy, đạt những thành tựu kỳ diệu.

Diễn biến của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga cho thấy, cách mạng muốn giành được thắng lợi quyết định thì phải có thời cơ. Nếu người đứng đầu lực lượng cách mạng không đủ bản lĩnh, trí tuệ, nhận định không đúng thời cơ và khi thời cơ đến mà bỏ lỡ thì sẽ là lỗi lầm lớn đối với lịch sử, cách mạng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí tổn thất nặng nề về lực lượng và thất bại. Vì vậy, việc phát hiện chính xác và nắm vững thời cơ cách mạng, kịp thời phát động lực lượng công - nông - binh nổi dậy giành thắng lợi quyết định là vấn đề hết sức hệ trọng. Do đó, chỉ riêng việc nhận định đúng thời cơ cách mạng, chớp lấy thời cơ cách mạng một cách khôn khéo, mau lẹ cũng đã đủ chứng minh cho sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Bôn-sê-vích Nga và thiên tài của lãnh tụ V.I. Lê-nin. Hơn nữa, khi toàn dân đã sẵn sàng và kiên quyết chiến đấu thì thời cơ cách mạng càng được nhân lên gấp bội và dẫn đến thắng lợi hoàn toàn, không gì có thể ngăn cản nổi, bởi họ chính là lực lượng tiên quyết để thực hiện sự thắng lợi ấy. Tóm lại, đó là quá trình vận động tất yếu và là sự vận dụng thành công mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố khách quan và nhân tố chủ quan - giữa thời cơ cách mạng và tình thế cách mạng; giữa thời cơ cách mạng và sự nắm bắt, tận dụng, lựa chọn thời cơ cách mạng một cách sáng tạo, khéo léo, tài tình của những người lãnh đạo cách mạng, cùng sự anh dũng, kiên quyết của quần chúng cách mạng; giữa sự rối ren, mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù và thực lực, khí thế cách mạng;… Và, đó cũng chính là hiện thân của sự vận dụng nhuần nhuyễn phép biện chứng duy vật và khoa học chính trị chân chính - mà lãnh tụ V.I. Lê-nin đã bao năm dày công nghiên cứu, tìm tòi và phát triển sáng tạo - vào giải quyết một vấn đề thực tiễn điển hình, cụ thể, cấp thiết trong một hoàn cảnh, thời điểm lịch sử cụ thể, sống động.

Tầm vóc thời đại và sự lan tỏa của Cách mạng Tháng Mười Nga đã khởi nguồn cho những thắng lợi tiếp theo của các cuộc cách mạng xã hội tiến bộ trên thế giới, trong đó có Việt Nam; đã để lại cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nhiều bài học kinh nghiệm lịch sử quý giá, trong đó có bài học về nhận định đúng thời cơ cách mạng và tận dụng triệt để thời cơ cách mạng để lật đổ chế độ cũ, giành lấy chính quyền về tay giai cấp vô sản.

Tiếp thu và vận dụng sáng tạo tinh thần cách mạng tiến công, nắm vững thời cơ, vượt qua thách thức của Cách mạng Tháng Mười Nga, Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã lãnh đạo toàn dân chủ động chuẩn bị những điều kiện cách mạng để sẵn sàng đón nhận thời cơ, chớp lấy thời cơ “ngàn năm có một” để làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vĩ đại. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân ta phải trải qua cuộc đấu tranh quyết liệt và khéo léo chống “thù trong, giặc ngoài”; trải qua các cuộc kháng chiến thần kỳ chống thực dân, đế quốc xâm lược; tiến hành công cuộc đổi mới để bảo vệ và phát huy thành quả của Cách mạng Tháng Tám, bảo vệ và phát triển sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lịch sử hào hùng của dân tộc trong thế kỷ XX đã cho thấy, không thể có chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và Đại thắng mùa Xuân năm 1975 nếu Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh không có tầm nhìn chiến lược, tư duy nhạy bén trong chuẩn bị và chớp thời cơ để làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945 lịch sử. Ngược lại, mọi thành quả của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 sẽ không được bảo vệ và phát huy nếu không có thắng lợi vĩ đại của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. V.I. Lê-nin đã chỉ rõ: Một cuộc cách mạng chỉ thật sự có giá trị nếu nó biết tự bảo vệ. Cách mạng Việt Nam đã chứng minh một cách đầy thuyết phục chân lý đó.

Noi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta kiên định lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội để phát triển đất nước và đã giành được những thắng lợi chưa từng có, mở ra kỷ nguyên độc lập, thống nhất, hòa bình, phát triển cho dân tộc. Vào thập niên tám mươi của thế kỷ XX, trước tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế lúc đó, Đảng ta đã khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Trong gần 30 năm đổi mới, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đưa đất nước ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới để chủ động đón nhận và tận dụng được những thời cơ và vận hội mới . Vì vậy, những năm gần đây, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là trong việc thúc đẩy phát triển công nghiệp và dịch vụ. Mặc dù tình hình kinh tế thế giới những năm qua còn có nhiều biến động, nhưng nguồn vốn ODA cam kết cho Việt Nam sau 20 năm đã đạt gần 80 tỷ USD, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tính đến năm 2011, nước ta đã có quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư với hơn 220 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có tất cả các nước lớn. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007 đã đưa quá trình hội nhập của đất nước từ cấp độ khu vực (ASEAN năm 1995) và liên khu vực (ASEM năm 1996, APEC năm 1998) lên cấp độ toàn cầu.

Những thành tựu đạt được trong gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng đã tạo ra cho đất nước ta thế và lực mới, với sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước, mở ra những cơ hội và thuận lợi mới để đưa đất nước hội nhập ngày càng sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu, góp phần quan trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Điều đó đã chứng minh bản lĩnh, trí tuệ, tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong lãnh đạo đất nước, trong việc “tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức” để đưa đất nước vững bước đi lên trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Với nhận thức thời cơ là lực lượng, hiện nay Đảng ta đang tập trung lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI của Đảng; từ đó sẽ tạo ra sự bứt phá, tạo đà và cơ hội để vươn lên giành những thành tựu to lớn hơn nữa.

Trên thế giới hiện nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, tạo ra những kỹ thuật mũi nhọn để có thể đưa năng suất lao động lên rất cao. Đồng thời, xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa kinh tế ngày càng tăng mạnh; xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển cũng diễn ra mạnh mẽ. Đó là những thời cơ mới, là những nhân tố tạo nên môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay ở nước ta, cơ hội và thách thức luôn đan xen, lồng ghép vào nhau - trong cơ hội bao hàm cả thách thức và trong thách thức cũng bao hàm cả cơ hội. Cơ hội càng lớn, thách thức càng nhiều, và do đó, càng đòi hỏi sự sáng suốt, tầm nhìn xa, trông rộng và bản lĩnh chính trị, quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước ta, cùng sự nỗ lực của toàn dân, để hạn chế những khó khăn, thách thức, biến thách thức thành cơ hội. Vì thế, tuy đất nước đạt được những thành tựu to lớn trong quá trình chủ động hội nhập vào nền kinh tế thế giới, nhưng chúng ta vẫn đang phải đối mặt với không ít nguy cơ và thách thức đan xen nhau, diễn biến khá phức tạp, không thể xem thường. Đó là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ chệch định hướng xã hội chủ nghĩa; là tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả những người đứng đầu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI của Đảng đã nêu ra; là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn diễn ra với mức độ khá nghiêm trọng. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng nước ta.

Trước tình hình đó, một trong những đòi hỏi cao nhất đối với Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị là tích cực nghiên cứu, vận dụng tốt những bài học kinh nghiệm lịch sử về thời cơ cách mạng trong Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ đất. Nếu như trong Cách mạng Tháng Mười Nga, việc nhận định đúng thời cơ, nhạy bén chớp thời cơ để lật đổ chế độ Nga hoàng, giành chính quyền về tay giai cấp vô sản chỉ diễn ra trong một ngày đêm; còn trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chỉ trong khoảng 15 ngày, các địa phương trong toàn quốc đã chớp lấy thời cơ “ngàn năm có một” để giành lấy chính quyền về tay nhân dân, thì hiện nay, trong việc nắm bắt, tranh thủ thời cơ và vận hội mới để đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải nỗ lực vượt bậc, vượt qua rất nhiều khó khăn, thách thức, trở ngại.

Để tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ trong tình hình mới, chúng ta phải luôn quán triệt sâu sắc và vận dụng có hiệu quả phương châm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra và vận dụng thành công trong thời kỳ giành và giữ chính quyền những năm 1945 - 1946. Vận dụng “bất biến” trong thời kỳ hội nhập, mở cửa ở nước ta hiện nay là, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải luôn kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, lợi ích của giai cấp và quyền lợi của nhân dân lên trên hết. Phải tuyệt đối không vì lợi ích nhất thời, cục bộ của tổ chức, cá nhân nào đó mà vi phạm, bất chấp nguyên tắc, làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc. Thực hiện việc phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong quá trình hội nhập quốc tế cũng phải luôn biết “ứng vạn biến”, nghĩa là phải biết phân tích, dự đoán và mau lẹ chớp lấy thời cơ, nắm chắc và triệt để tận dụng có hiệu quả thời cơ, vận hội mới để mang lại lợi ích to lớn cho quốc gia, cộng đồng, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đó cũng chính là thước đo trình độ trí tuệ, tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo và nguyên tắc lãnh đạo của Đảng ta trong quá trình chủ động hội nhập quốc tế hiện nay. Có như vậy, Đảng ta mới thực sự là một đảng mác-xít kiểu mới, luôn trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và những bài học kinh nghiệm lịch sử về thời cơ cách mạng được hội tụ và tỏa sáng từ cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917 vào điều kiện cụ thể của Việt Nam hiện nay./. 
Phùng Đông, Tạp chí Cộng sản
Nét đặc sắc về văn hóa trong phong cách giao tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh
11:24' 25/9/2013
TCCSĐT - Không chỉ tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, thương dân; trí tuệ trác tuyệt, nhãn quan chính trị nhạy bén; năng lực tổng kết thực tiễn và dự báo thiên tài… Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là hiện thân của phong cách giao tiếp độc đáo, chứa đựng nhiều nét văn hóa đặc sắc. Chính những nét đặc sắc về văn hóa trong phong cách giao tiếp đã góp phần tạo nên giá trị văn hóa trong nhân cách Hồ Chí Minh.

Phong cách giao tiếp (hiểu theo nghĩa chung nhất) là cách thức tiếp xúc, phương thức trao đổi thông tin giữa cá nhân với cá nhân hoặc giữa cá nhân với tập thể thông qua hệ thống các phương tiện ngôn ngữ nhằm mục đích truyền đạt tín hiệu, tình cảm, hiểu biết… của chủ thể giao tiếp. Trong đời sống xã hội, giao tiếp là hoạt động diễn ra thường xuyên và không thể thiếu của con người, xã hội càng phát triển thì vai trò của giao tiếp càng trở nên quan trọng. Đối với những cán bộ lãnh đạo, các chính khách thì hoạt động giao tiếp, phong cách giao tiếp luôn là nhân tố quan trọng đặc biệt, là “chìa khóa” đưa đến thành công.
Được hình thành, phát triển trong suốt quá trình khổ công học tập, rèn luyện gắn với những trải nghiệm thực tiễn hoạt động cách mạng, nét văn hóa đặc sắc trong phong cách giao tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết tinh hài hòa giữa những giá trị văn hóa giao tiếp truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hóa giao tiếp của nhân loại tiến bộ.
Trước hết, phong cách giao tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn mang đậm nét văn hóa nhân văn, nhân bản vì con người.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện phong cách giao tiếp giản dị, gần gũi, cởi mở, tế nhị và chu đáo với tất cả mọi người. Có thể nói, trên thế giới hiếm có nhà lãnh đạo nào có được phong cách giao tiếp giàu giá trị văn hóa như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo Bác, “Đối với tất cả mọi người trong các tầng lớp dân chúng, ta phải có một thái độ mềm dẻo khôn khéo, biết nhân nhượng, biết trọng nhân cách người ta”(1). Và thực tiễn trong phong cách giao tiếp đối với mọi người, dù là cán bộ, đảng viên hay quần chúng nhân dân, dù với tướng lĩnh hay những đội viên nhỏ tuổi, chúng ta luôn cảm nhận được ở Hồ Chủ tịch phong thái vừa ân cần, niềm nở, vừa thân ái gần gũi. Ngay cả khi phê bình, nhắc nhở khuyết điểm của người khác thì Bác cũng thể hiện thái độ tế nhị, nhẹ nhàng nhưng cũng rất thấm thía, sâu sắc. Dù ở cương vị nào, người đồng chí, đồng đội; người cha, người Bác, người anh hay người đứng đầu Chính phủ…, phong cách giao tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh bao giờ cũng chứa đựng nét văn hóa tôn trọng, gần gũi, cởi mở và chu đáo với mọi người. Chính điều này đã tạo ra ở phong cách giao tiếp Hồ Chí Minh khả năng “đắc nhân tâm”.
Điểm độc đáo là trong giao tiếp nói và viết, Bác luôn nhấn mạnh tính chân thực, ngắn gọn, rõ ràng, trong sáng, giản dị, gần gũi, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm; đi luôn vào nội dung vấn đề, tránh màu mè, dài dòng… Nói đến phong cách giao tiếp Hồ Chí Minh chính là nói đến giá trị văn hóa giao tiếp ở Người. Điều này lý giải vì sao phong cách giao tiếp của Hồ Chí Minh luôn có sức hút mạnh mẽ đối với mọi người: “Chủ tịch Hồ Chí Minh cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, sáng chói mà không gây choáng ngợp, gặp lần đầu mà như thân thuộc từ lâu”(2). Chính nét văn hóa giản dị, gần gũi, cởi mở, tế nhị đó đã làm cho tất cả mọi người, dù khác nhau về địa vị, thành phần xuất thân, mục đích, điều kiện hoàn cảnh giao tiếp song khi tiếp xúc với Bác, đều có chung cảm nhận về sự nể trọng, tôn kính bởi sức cảm hóa to lớn xuất phát từ đạo đức, nhân cách và phép ứng xử văn hóa của Người. Nói cách khác, “hữu xạ tự nhiên hương”, một cách hoàn toàn tự nhiên, nét đặc sắc về văn hóa trong phong cách giao tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh dường như đã xóa nhòa mọi rào cản, phá bỏ mọi ngăn cách về văn hóa, dân tộc, ngôn ngữ; về vị thế xã hội; về lập trường chính trị… khi Bác giao tiếp cùng mọi người.
Hơn nửa thế kỷ trước, các thế lực thực dân phản động đã không thể lý giải việc vợ chồng luật sư người Anh Lô-dơ-by (F.H. Loseby) bất chấp nguy hiểm khi nhận lời bào chữa và tận tình giúp đỡ Chủ tịch Hồ Chí Minh thoát khỏi nhà tù Victoria. Năm 1931, Chủ tịch Hồ Chí Minh (khi đó có tên là Tống Văn Sơ) bị chính quyền Anh bắt tại Hồng Công và buộc tội là phần tử cộng sản nguy hiểm, phái viên của Quốc tế Cộng sản III đến Hồng Công để lật đổ. Song bằng tình cảm chân thành, phong cách giản dị, gần gũi nên chỉ qua một lần duy nhất tiếp xúc, Người đã cảm hóa được vợ chồng luật sư Lô-dơ-by, những người không cùng “chiến tuyến”. Như luật sư Lô-dơ-by kể lại: “Sau ba mươi phút gặp gỡ, Người đã hoàn toàn chinh phục tôi. Ở Người toát ra một sức mạnh cảm hóa kỳ diệu”. Và bà Lô-dơ-by cũng khẳng định: “Chỉ sau mười phút là tôi cảm phục Người. Tôi thúc nhà tôi làm gấp hồ sơ, còn tôi và con gái tôi ngày ngày vào thăm, săn sóc sức khỏe cho Người”(3). Hơn tất cả, sự cảm hóa “kỳ diệu” đó có được từ chính nhân cách và nét văn hóa đặc sắc trong phong cách giao tiếp của Hồ Chủ tịch.
Thứ hai, phong cách giao tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chứa đựng tình cảm chân thành và tinh thần khoan dung, độ lượng.
Kế thừa và phát huy truyền thống nhân ái, bao dung của dân tộc, trong mọi hình thức giao tiếp, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện thái độ yêu thương, trân trọng, quý mến con người; khiêm nhường, khoan dung và độ lượng với con người. Trong rất nhiều bài nói, bài viết và nhất là từ phong cách giao tiếp của Người, chúng ta nhận thấy ở đó thông điệp giàu giá trị nhân văn: Trong quan hệ giao tiếp với mọi người, cần đề cao thái độ tôn trọng, bao dung, độ lượng, không kiêu căng, đừng hách dịch.
Thực tế, khi giao tiếp với tất cả mọi người, từ những người nông dân đang lao động trên đồng ruộng cho đến người thương binh, bệnh binh đang nằm trên giường bệnh, từ bạn bè, đồng chí, anh em cho đến các cháu thiếu niên, nhi đồng hay với những người “đối lập” với mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh bao giờ cũng thể hiện thái độ tự nhiên, chân tình, cởi mở, vừa chủ động, linh hoạt cũng vừa ân cần, gần gũi làm cho bất kỳ ai dù chỉ được gặp Người một lần cũng cảm nhận rõ không khí ấm cúng, tình cảm, chan hòa mà gần gũi. Dường như trong giao tiếp với Bác, không hề có khoảng cách giữa lãnh tụ với nhân dân, giữa vĩ nhân với quần chúng. Vì vậy, phong cách giao tiếp của Người luôn tiềm ẩn sức cuốn hút, năng lực cảm hóa và thôi thúc mọi người hướng đến những giá trị nhân văn tốt đẹp. Trong Thư gửi đồng bào Nam Bộ, Bác viết: “Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài. Nhưng ngắn dài đều họp nhau tại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này người thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ”(4).
Với nét văn hóa khoan dung, độ lượng trong phong cách giao tiếp, Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh: “Đối với đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ”(5). Trong thực tiễn hoạt động cách mạng, ở mọi hoàn cảnh, Người luôn nhất quán: “Đối với những kẻ đi lầm đường lạc lối, đồng bào ta cần phải dùng chính sách khoan hồng. Lấy lời khôn lẽ phải mà bày cho họ”(6). Thực hiện tinh thần đó, sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Bác đã trân trọng mời nhiều nhân sĩ, trí thức nổi tiếng, có phẩm chất, có năng lực cùng tham gia sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của dân tộc. Trong số đó có nhiều vị là quan đại thần của triều đình nhà Nguyễn như cụ Bùi Bằng Đoàn (nguyên là Thượng thư Bộ hình), cụ Phan Kế Toại (nguyên Khâm sai Bắc Kỳ), cụ Phạm Khắc Hòe, Vi Văn Định; có người là nhân sĩ nổi tiếng, những bậc đại khoa như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố; có nhiều người trí thức Tây học nổi tiếng như Phan Anh, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Văn Huyên; có những nhà tư sản dân tộc yêu nước như Ngô Tử Hạ, Trịnh Văn Bính,… Có thể nói, chính bằng phong cách giao tiếp thấm đẫm nét văn hóa chân tình, khoan dung, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xóa mờ mọi khoảng cách để đạt được sự tương đồng, đã đẩy xa những khác biệt tạo ra sự đồng thuận với mục tiêu cao nhất là có lợi cho sự nghiệp chung. Bởi vậy, Người đã quy tụ được các bậc yêu nước lão thành, động viên những trí thức lớn rời bỏ cuộc sống nhung lụa để cống hiến tài năng, tâm huyết cho cách mạng.
Thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn làm chủ các tình huống giao tiếp với phương pháp ứng xử văn hóa khéo léo, mềm mỏng và hiệu quả.
Nét độc đáo này trong phong cách giao tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là kết tinh của vốn hiểu biết sâu rộng, uyên bác; tài trí thông minh, nghị lực và bản lĩnh phi thường với phong thái giản dị, lạc quan, thẳng thắn, tự tin cùng phong cách lịch thiệp, nho nhã, mực thước khi giao tiếp ứng xử. Điều này đã giúp Người xử lý một cách khéo léo những tình huống giao tiếp một cách mềm mỏng mà hiệu quả. Theo Người, khi đứng trước mọi vấn đề, mọi tình huống, việc quan trọng nhất là “phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy”(7). Tức là phải bình tĩnh, suy xét, khéo léo trong các tình huống giao tiếp cụ thể.
Những gì đã diễn ra trong lịch sử cho thấy, phương pháp ứng xử văn hóa khéo léo, mềm mỏng và hiệu quả của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần mang đến cho cách mạng Việt Nam những thành quả to lớn. Còn nhớ, 68 năm trước, dù Cách mạng Tháng Tám thành công nhưng chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ đã ngay lập tức phải đối mặt với vô vàn khó khăn như “thù trong giặc ngoài”, giặc đói, giặc dốt, thiên tai lũ lụt,… Chính trong bối cảnh lịch sử đặc biệt đó, với chiến lược và sách lược tài tình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “vững tay chèo” đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi thác ghềnh để bảo vệ vững chắc những thành quả của cách mạng. Trên cương vị người đứng đầu Chính phủ, với nhãn quan chính trị nhạy bén, tầm nhìn sâu rộng, tư duy chiến lược và phong cách giao tiếp ứng xử linh hoạt, khéo léo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triệt để khai thác những mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thù, tận dụng tối đa mâu thuẫn lợi ích giữa Pháp và Tưởng, khi thì Người nhân nhượng Pháp để đuổi quân Tưởng và bè lũ tay sai về nước, lúc Người lại hòa hoãn với Tưởng để tập trung đối phó với Pháp và tạo thời gian chuẩn bị lực lượng cho kháng chiến lâu dài. Song, dù với Pháp hay với Tưởng thì sự nhân nhượng của Người bao giờ cũng trên cơ sở nguyên tắc giữ vững chính quyền cách mạng. Việc này thể hiện rất rõ tính linh hoạt và hiệu quả của Người trong giải quyết nhiệm vụ cách mạng cũng là giải quyết những tình huống giao tiếp cụ thể.
Với cách tiếp cận và giải quyết các tình huống một cách mềm dẻo, khéo léo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tránh cho dân tộc ta một cuộc đụng độ bất lợi, không chỉ đuổi được 20 vạn quân Tưởng và bọn tay sai về nước mà quan trọng hơn là bảo vệ được nền độc lập non trẻ, đồng thời có thêm thời gian cần thiết để chuẩn bị mọi mặt cho kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đây cũng là biểu hiện của triết lý “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giao tiếp, ngoại giao và giải quyết các nhiệm vụ cách mạng. Người khẳng định: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”(8). Và phong cách giao tiếp giàu nét văn hóa đặc sắc của Hồ Chí Minh cũng luôn nhất quán quan điểm này: Độc lập, thống nhất Tổ quốc và tự do, hạnh phúc cho nhân dân là cái “bất biến” còn tùy điều kiện hoàn cảnh, tùy đối tượng cụ thể để vận dụng linh hoạt, khéo léo những phương pháp, cách thức giao tiếp khác nhau để đạt được cái “bất biến” nêu trên.
Đặt trong bối cảnh mới hiện nay, việc nghiên cứu, tìm hiểu, học tập và vận dụng những nét đặc sắc trong phong cách giao tiếp Hồ Chí Minh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây không chỉ là cơ sở để chúng ta xây dựng, hoàn thiện con người mới xã hội chủ nghĩa mà còn là “cẩm nang” quý giá để Đảng và Nhà nước ta vận dụng trong thực hiện đường lối đối ngoại, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế; trong thực hiện chủ trương cải cách hành chính, xây dựng văn hóa giao tiếp hành chính cho cán bộ, công chức Nhà nước. Nhìn nhận từ góc độ văn hóa, kế thừa và phát huy những nét đặc sắc về văn hóa trong phong cách giao tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng trên cơ sở tiếp tục thực hiện có hiệu quả giải pháp tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI của Đảng./.
--------------------------------------------

Chú thích:
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H. 2009, t. 4, tr. 48
(2) Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb. Sự Thật, H. 1990, tr. 17
(3) Hồi ký của ông bà Lô-dơ-by, Tài liệu lưu trữ tại Viện Lịch sử Đảng
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 246
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 239
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 319
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 239
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 319
Hồ Văn Thắng Tạ Quang Đạo
Phát triển và hiện thực hóa đường lối văn hóa của Đảng ta
17:1' 25/11/2013
TCCS - Để hiện thực hóa “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” chúng ta cần triển khai hàng loạt các giải pháp mang tính đồng bộ trên tinh thần kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,…

I- Ðề cương về văn hóa Việt Nam (năm 1943) của Trung ương Ðảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo là một văn kiện lịch sử quan trọng, thể hiện ý chí, nguyện vọng của cả dân tộc về việc xây dựng một nền văn hóa tiến bộ, thật sự nhân văn và dân chủ; thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, tầm nhìn chiến lược của Ðảng ta đối với sự phát triển của đất nước, đặc biệt là trên lĩnh vực văn hóa, ngay từ khi Đảng chưa nắm chính quyền.

Mặc dù mới chỉ vạch ra những nét đại cương, định hướng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa mới dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản, nhưng Ðề cương về văn hóa Việt Nam đã thực sự trở thành cơ sở lý luận và thực tiễn vô cùng quan trọng, đặt nền móng cho các quan điểm, chủ trương, chính sách tiếp theo của Ðảng về văn hóa, văn nghệ.

Ðề cương ra đời, khi mà hầu hết nhân dân ta còn thất học. Thực dân Pháp, phát-xít Nhật áp đặt tròng văn hóa nô dịch nhằm phục vụ lợi ích của thực dân đế quốc. Ðội ngũ trí thức phân tán, bọn vô chính phủ không ngừng tô vẽ cho bản thân, xuyên tạc lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, xuyên tạc và hạ thấp văn hóa dân tộc, đề ra nhiều luận thuyết về các kiểu “tân văn hóa”. Nhiều trí thức chân chính rất lo lắng, khi nhận thấy tinh thần dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc đang bị mai một hoặc không được thừa nhận.

Ngày 25-2-1943, Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng đề ra nhiệm vụ: Ðảng cần phái cán bộ chuyên môn về hoạt động văn hóa, để phát động một phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc chống lại văn hóa phát-xít thụt lùi. Ở những đô thị, như Hà Nội, Sài Gòn, Huế... phải gây dựng những tổ chức văn hóa cứu quốc và phải dùng những hình thức công khai hay bán công khai để đoàn kết các nhà văn hóa và trí thức...

Đề cương về văn hóa Việt Nam đã nêu ra hai “ức thuyết” mang tính tiền đề của văn hóa Việt Nam. Một là “Nền văn hóa phát xít (văn hóa trung cổ và nô dịch hóa) thắng thì văn hóa dân tộc Việt Nam nghèo nàn thấp kém”(1). Hai là, “Văn hóa dân tộc Việt Nam sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”(2). Đảng ta khẳng định “Căn cứ vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội hiện nay, cách mạng dân tộc Việt Nam nhất quyết sẽ làm cho ức thuyết thứ hai trở nên sự thực”(3). Đề cương nhấn mạnh “Những phương pháp cải cách văn hóa đề ra bấy giờ chỉ là dọn đường cho cuộc cách mạng triệt để mai sau”(4). Quan điểm đối với vấn đề văn hóa trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng đã thể hiện trong Đề cương về văn hóa Việt Nam: “1- Phạm vi vấn đề: Văn hóa bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật; 2- Quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị: nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc); 3- Thái độ của Đảng Cộng sản Đông Dương đối với vấn đề văn hóa:

a) Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hóa) ở đó người cộng sản phải hoạt động.

b) Không chỉ làm cách mạng chính trị mà còn phải làm cách mạng văn hóa nữa.

c) Có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả”(5).

Mục tiêu, con đường, phương châm, phương pháp thực hiện cuộc cách mạng văn hóa phải nắm vững “Ba nguyên tắc vận động cuộc vận động văn hóa nước Việt Nam trong giai đoạn này:

a) Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập).

b) Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng);

c) Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái với khoa học, phản tiến bộ)”(6).

Trong Đề cương về văn hóa Việt Nam, Đảng ta chống lại những khuynh hướng tư tưởng, triết học, văn hóa duy tâm, tiêu cực, bảo thủ trên thế giới. Về văn nghệ, Đảng ta chủ trương “làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng”.

Có thể khẳng định Đề cương về văn hóa Việt Nam là bản cương lĩnh văn hóa đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là cái gốc của đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng. Từ đó Đảng ta xây dựng đường lối hình thành và phát triển nền văn hóa mới, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ chiến tranh giải phóng và nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ đổi mới. Với định hướng chính trị đúng đắn đó, văn hóa, văn nghệ đã và đang đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Sau khi Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời, nhiều tri thức, văn nghệ sĩ đã hăng hái đi theo cách mạng và kháng chiến. Họ luôn bám sát nhiệm vụ cách mạng trở thành “người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hóa”, họ phản ánh sắc sảo, sinh động đời sống thực tiễn cách mạng, kịp thời động viên, cổ vũ phong trào toàn dân thi đua tăng gia sản xuất, giết giặc lập công, xây dựng “đời sống mới”. Hướng vào đời sống xã hội rộng lớn với những biến cố trọng đại của dân tộc, văn hóa, văn nghệ cách mạng giai đoạn 1930 - 1975 đã ghi lại những hình ảnh không thể phai mờ của một thời kỳ lịch sử đầy gian lao thử thách, nhiều hy sinh, nhưng cũng hết sức hào hùng, vẻ vang của dân tộc ta. Với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, với hai cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại, văn hóa, văn nghệ đã sáng tạo ra những hình tượng nghệ thuật cao đẹp về Tổ quốc và nhân dân, về các tầng lớp, thế hệ con người Việt Nam vừa giàu phẩm chất truyền thống dân tộc, vừa thấm sâu tinh thần của thời đại. Văn hóa, văn nghệ đã phát huy những giá trị cơ bản trong truyền thống của dân tộc là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần nhân đạo. Một đội ngũ đông đảo, nhiều thế hệ và không hiếm tài năng các nhà văn được tôi luyện, trưởng thành trong cách mạng và kháng chiến là thành tựu to lớn của nền văn hóa mới, hình thành kiểu nhà văn - chiến sĩ đáp ứng những đòi hỏi của thời đại cách mạng và chiến tranh. Có thể nói, cùng với sự ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam (năm 1943), với khẩu hiệu “kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng chiến” (năm 1945), trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc (1945 - 1975), văn hóa đã thực sự trở thành một mặt trận dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

II- Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, Ðảng ta luôn đổi mới phương thức lãnh đạo theo hướng vừa bảo đảm cho văn hóa, văn học, nghệ thuật phát triển đúng hướng, vừa bảo đảm thực hiện quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo văn hóa, văn nghệ trên cơ sở phát huy trách nhiệm, tính tự giác cao của trí thức, văn nghệ sĩ. Phải quan tâm xây dựng văn hóa từ trong Ðảng, trong bộ máy nhà nước, để “Ðảng ta thật sự là đạo đức, là văn minh”.

Bảy mươi năm qua, Ðảng ta luôn quan tâm gìn giữ và phát triển nền văn hóa của dân tộc. Bước vào thời kỳ đổi mới, quán triệt những tư tưởng định hướng, mở đường của Ðề cương về văn hóa Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII (tháng 7-1998) “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”, “Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Ðảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng”.

Quan điểm của Đảng ta từ khi đổi mới đến nay đã khẳng định: đổi mới văn hóa không tách rời với đổi mới kinh tế và chính trị, văn hóa được coi là nền tảng tinh thần, là mục tiêu và động lực để phát triển đất nước. Hiểu văn hóa không chỉ là nhân tố nuôi dưỡng đạo đức, tinh thần xã hội mà còn là sức mạnh thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, là một bước phát triển mới trong tư duy của Đảng. Nhiều nhà khoa học cho rằng nguồn gốc nghèo nàn, lạc hậu của một dân tộc nằm trong văn hóa, vì thế cần nhận thức đầy đủ hơn, sâu hơn vai trò của văn hóa và nhân tố con người trong sự nghiệp phát triển đất nước. Nhân tố con người gắn liền với thế giới tinh thần phải được coi là nhân tố chủ đạo của sự phát triển. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đã rất nhạy bén khi đề ra chủ trương phát triển văn hóa theo quan điểm hội nhập quốc tế, xây dựng con người và văn hóa Việt Nam trong mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc với quốc tế; coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là phải xây dựng con người Việt Nam vừa có đức tính yêu nước, thương nòi, vừa có tinh thần đoàn kết với nhân dân thế giới; đề cao giá trị dân chủ và tôn trọng tự do sáng tạo của các văn nghệ sĩ; tiếp thu mọi thành tựu văn hóa tiên tiến của thế giới. Nghị quyết nêu lên mười lĩnh vực chúng ta cần quyết tâm thực hiện. Đó là: xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn mới; xây dựng môi trường văn hóa; phát triển sự nghiệp văn hóa - nghệ thuật; bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa; phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ; phát triển đi đôi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại chúng; bảo tồn phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số; chính sách văn hóa đối với tín ngưỡng tôn giáo; mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực văn hóa; củng cố và hoàn thiện thể chế văn hóa. Đến Đại hội IX (năm 2001), phát triển văn hóa được nhấn mạnh vào việc xây dựng “đời sống văn hóa”, nhất là đời sống văn hóa ở cơ sở, “nếp sống văn minh” của nhân dân ở cả nông thôn và thành thị, đẩy mạnh “giao lưu văn hóa” với bên ngoài. Có thể nói đường lối phát triển văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và theo tinh thần hội nhập quốc tế đã được Đảng kiên trì quán triệt. Không chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò to lớn của văn hóa đối với quá trình đổi mới đất nước, Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 khóa IX về công tác văn hóa (năm 2003) đã nhấn mạnh sự đồng bộ của một kết cấu chặt chẽ, trong đó xây dựng kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và xây dựng văn hóa làm nền tảng tinh thần của xã hội, tạo thế “chân vạc” vững chắc cho quá trình phát triển bền vững đất nước.

Một đổi mới quan trọng trong tư duy của Đảng về văn hóa trong thời kỳ mới là thừa nhận quyền lợi cá nhân trong quyền tự do về văn hóa. Trong các đức tính của con người Việt Nam, Đảng chủ trương xây dựng con người có đức tính lao động chăm chỉ “vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội” (Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII). Mặt khác, sáng tạo văn hóa không chỉ vì lợi ích tinh thần, mà còn có thể đem lại lợi ích vật chất - kinh tế cho nhân dân. Không chỉ với tư cách là nền tảng của đời sống tinh thần, văn hóa cũng tham gia quá trình sản xuất và mang giá trị vật chất - kinh tế, nhất là khi nó được đưa vào đời sống. Trong hơn hai thập niên gần đây, khi chính sách kinh tế trong văn hóa của Nhà nước ta được coi trọng thì quan niệm về vai trò của văn hóa đã thay đổi. Về điều này, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII khẳng định: Phải xây dựng “Chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh tế nhằm gắn văn hóa với các hoạt động kinh tế”, tiến tới hòa nhập giữa văn hóa và kinh tế trong phát triển. Nghị quyết Đại hội X của Đảng một lần nữa nhấn mạnh phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa xây dựng văn hóa với phát triển kinh tế. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng yêu cầu xây dựng văn hóa phải hài hòa với phát triển kinh tế.

Nhờ đổi mới tư duy, trong đó có đổi mới tư duy về văn hóa, trong gần 30 năm tiến hành đổi mới toàn diện đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn hóa Việt Nam đã có những biến đổi sâu sắc theo hướng nâng cao, trở nên phong phú hơn, cởi mở hơn. Sứ mệnh cao cả của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - chính trị - xã hội, đối với quá trình hình thành nhân cách, trí tuệ con người mới Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vai trò của sự nghiệp văn hóa đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân được nhận thức ngày càng rõ hơn. Sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước về văn hóa được tăng cường, các thể chế văn hóa được hoàn thiện thêm một bước. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có những văn bản quy phạm có địa vị pháp lý cao, những đề án, chiến lược quan trọng trong phát triển văn hóa đã được ban hành, phát huy hiệu lực, điều chỉnh khá toàn diện các lĩnh vực hoạt động, phục vụ hiệu quả công tác lãnh đạo chỉ đạo, điều hành của Đảng và Nhà nước, đồng thời giúp các địa phương tháo gỡ vướng mắc trong công tác lãnh đạo, quản lý, tạo sự thống nhất trên phạm vi cả nước, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về văn hóa, hình thành hành lang pháp lý thuận lợi cho các hoạt động văn hóa phát triển.

Công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm được duy trì thường xuyên, đạt hiệu quả tốt, góp phần ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực và định hướng hoạt động cho các loại hình dịch vụ văn hóa. Công tác bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa dân tộc được đặc biệt chú trọng. Đến nay, nước ta đã có 7 di sản được công nhận là di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, nhất là đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và biên giới, hải đảo được đẩy mạnh. Đầu tư cho xây dựng và phát huy hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hóa ở cơ sở được tăng cường, đặc biệt là việc xây dựng nhà văn hóa thôn, bản ở những vùng khó khăn đã trở thành phong trào thi đua ở nhiều địa phương trong cả nước. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tiếp tục được đẩy mạnh, thực sự trở thành cuộc vận động văn hóa lớn có sức lan tỏa và ảnh hưởng sâu rộng, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng con người mới.

Các lĩnh vực hoạt động của sự nghiệp văn hóa và các mặt công tác khác đều có bước phát triển mới với những thành tựu đáng khích lệ. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng văn hóa - nghệ thuật tiếp tục được củng cố và nâng cấp, quy mô đào tạo được mở rộng, chất lượng đào tạo không ngừng được nâng lên, hoạt động văn hóa - nghệ thuật chuyên nghiệp và không chuyên đều có chuyển biến tích cực. Hoạt động điện ảnh tiếp tục được quan tâm đầu tư. Mạng lưới thư viện được củng cố và mở rộng đến tận xã, phường, một số thư viện được đầu tư xây dựng mới theo hướng hiện đại, ý thức pháp luật về bản quyền tác giả văn học - nghệ thuật của xã hội dần được nâng lên. Công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa theo Nghị quyết số 90/CP, ngày 21-8-1997, của Chính phủ về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa đạt được những kết quả rất có ý nghĩa. Hợp tác giao lưu văn hóa với các nước diễn ra sôi nổi, phong phú, mở rộng ở tất cả các địa bàn, tăng cường giới thiệu văn hóa, đất nước, con người Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới.

Các thành tựu đạt được trên lĩnh vực văn hóa trong nhiều năm qua khá toàn diện và có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoàn thành các chỉ tiêu phát triển văn hóa của đất nước, đồng thời góp phần tiếp tục thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Kết luận Hội nghị Trung ương 10 khóa IX và Nghị quyết Đại hội X, XI của Đảng. Đặc biệt, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, các hình thức sinh hoạt tư tưởng, chính trị nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước đã tạo thành một cao trào sinh hoạt văn hóa - tư tưởng, hình thành bầu không khí chính trị tích cực trong đời sống xã hội, bồi đắp tinh thần yêu nước, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa nước ta đã và đang đối diện với nhiều khó khăn, thách thức thường xuyên do cả điều kiện khách quan, cả nhân tố chủ quan đem lại.

Nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa chưa đầy đủ và có sự chênh lệch lớn trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng chưa toàn diện, chưa thường xuyên. Quan điểm phát triển kinh tế đi đôi với xây dựng, phát triển văn hóa; gắn xây dựng văn hóa với xây dựng, chỉnh đốn Đảng; coi văn hóa là nền tảng tinh thần, động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội chưa được chú ý đúng mức. Trên thực tế chúng ta chưa có chủ trương, chính sách đúng đắn để phát triển công nghiệp văn hóa. Cần phải có bước đột phá trong việc cải cách thể chế văn hóa ở nước ta. Cho đến nay, khi mà công nghiệp văn hóa trên thế giới đã phát triển vượt bậc thì ở nước ta chưa chia tách công nghiệp văn hóa và sự nghiệp văn hóa. Điều này vừa bất lợi cho sự phát triển thị trường công nghiệp văn hóa, vừa bất lợi cho sự phát triển sự nghiệp văn hóa. Để tăng cường sức cạnh tranh quốc tế của văn hóa nước ta, cần phải nhanh chóng tạo nên sự tác động lẫn nhau tích cực của sự nghiệp văn hóa và công nghiệp văn hóa. Thực tế cho thấy, cạnh tranh văn hóa quốc tế đã trở thành một bộ phận của cạnh tranh thực lực tổng hợp quốc gia mà hình thức chủ yếu của cạnh tranh văn hóa quốc tế là cạnh tranh công nghiệp văn hóa. Điều đó buộc chúng ta phải có những suy nghĩ mới.

Tác động mặt trái của cơ chế thị trường đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã làm cho công tác quản lý nhà nước ở một số lĩnh vực còn thiếu chủ động, lúng túng và bộc lộ sơ hở. Một số loại hình dịch vụ văn hóa mới, nhất là các dịch vụ qua mạng in-tơ-nét, blog, game online..., chưa có giải pháp quản lý, kiểm soát hiệu quả. Hệ thống luật pháp về văn hóa thiếu đồng bộ, thậm chí ở một số lĩnh vực vẫn chưa có điều chỉnh, một số văn bản pháp quy không còn phù hợp hoặc kém hiệu quả, hiệu lực chưa được bổ sung, thay thế kịp thời. Bộ máy quản lý và đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa, nhất là đội ngũ cán bộ cơ sở, còn thiếu về số lượng, yếu về nghiệp vụ, chuyên môn, còn nặng tư duy bao cấp và chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện, kỹ thuật còn thiếu thốn. Thị trường sản phẩm văn hóa còn phát triển tự phát. Thể chế văn hóa chưa được đổi mới đã cản trở sự phát triển của văn hóa. Đặc biệt là các chính sách văn hóa (chính sách văn hóa trong kinh tế và chính sách kinh tế trong văn hóa) chưa thực sự đi vào đời sống. Kết quả của công tác xã hội hóa văn hóa chưa toàn diện.

Mức đầu tư cho sáng tác các loại hình văn học - nghệ thuật còn thấp. Một số di tích lịch sử văn hóa có giá trị bị xuống cấp chưa được tu bổ kịp thời. Nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể bị mai một, chưa có biện pháp hữu hiệu để giữ gìn, bảo tồn. Tính ứng dụng của các đề tài nghiên cứu khoa học về lĩnh vực văn hóa chưa cao. Các hoạt động văn hóa - nghệ thuật chất lượng chưa cao và ít được đổi mới. Sự chênh lệch về mức hưởng thụ văn hóa giữa đô thị với các vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biên giới, miền núi, hải đảo còn nhiều cách biệt.

Sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường đã làm các mối quan hệ ở một số mặt có chiều hướng xuống cấp. Hiện tượng suy thoái về đạo đức, lối sống trong một bộ phận xã hội, trong đó có cả cán bộ, đảng viên chưa có biện pháp ngăn chặn hữu hiệu. Trong một bộ phận xã hội, nhất là ở lớp trẻ, tình trạng coi thường các giá trị văn hóa tốt đẹp và thuần phong mỹ tục của dân tộc có xu hướng mở rộng. Các tệ nạn xã hội chưa giảm. Hoạt động trùng tu, tôn tạo bảo tồn di sản có lúc, có nơi thực hiện chưa nghiêm gây bức xúc trong dư luận. Một số nơi, chất lượng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa chưa cao, còn có những biểu hiện phô trương, chạy theo thành tích. Việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội vẫn còn biểu hiện tiêu cực, hủ tục chưa được đẩy lùi. Một số bộ, ngành và địa phương thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị chưa nghiêm, tổ chức các ngày kỷ niệm và lễ hội còn mang nặng tính hình thức, phô trương, tốn kém, hiệu quả thấp...

Những yếu kém, thiếu sót trên đây không chỉ làm suy giảm tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, mà còn có nguy cơ làm chệch hướng phát triển, làm xấu hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam. Đó không chỉ là một nguy cơ lớn, mà còn có thể là nguy cơ của mọi nguy cơ, đặc biệt khi chúng ta mở rộng hội nhập với thế giới.

III- Từ khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII đến nay, nước ta đang ở vào thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đang ở vào giai đoạn đầu của phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhiều loại mâu thuẫn xã hội cũ, mới nảy sinh, cộng với sự tác động của toàn cầu hóa đã làm cho quan niệm giá trị văn hóa của mọi người, nhất là quan niệm giá trị văn hóa truyền thống và văn hóa XHCN được chúng ta xây dựng từ năm 1945 đến nay đối mặt với thách thức gay gắt. Mạng in-tơ-nét phát triển nhanh chóng cũng làm cho sự truyền bá các loại quan niệm văn hóa mọi màu sắc mở rộng tác động chưa từng có. Vì vậy, trước làn sóng của toàn cầu hóa kinh tế, đứng trước sự thách thức của văn hóa phương Tây, làm thế nào để bảo vệ và phát huy nhân tố tích cực của văn hóa truyền thống và nền văn hóa dân tộc hiện đại để quy tụ tinh thần dân tộc, thu hút những thành quả, những tinh hoa văn hóa của thế giới nhằm đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,... là những vấn đề “nóng” để giới học thuật thảo luận nhằm rút ra những phát hiện mới, bổ sung và hoàn thiện đường lối văn hóa của Đảng. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về văn hóa thường chỉ chú ý đến mặt hình thái ý thức mà chưa chú ý thích đáng đến mặt lợi ích vật chất. Vì vậy, chúng ta cần nhận thức đầy đủ tầm quan trọng và tính cấp bách của phát triển văn hóa, tự giác và chủ động hơn nữa để phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới.

Toàn Đảng, toàn dân cần nhận thức sâu sắc rằng, văn hóa tiên tiến XHCN là ngọn cờ tinh thần tư tưởng của chính đảng mác-xít, xây dựng văn hóa là bộ phận hợp thành quan trọng của toàn bộ sự nghiệp xây dựng CNXH. Không có sự hướng dẫn tích cực của văn hóa, không có sự phong phú của thế giới tinh thần nhân dân, thì một quốc gia, một dân tộc không thể đứng vững trong cộng đồng các dân tộc trên thế giới. Một xã hội, ở đó đời sống vật chất nghèo nàn thiếu thốn, đời sống tinh thần đơn điệu, trống rỗng, thì không thể là xã hội XHCN. Không có văn hóa XHCN phát triển phồn vinh, thì không thể có hiện đại hóa XHCN. Trong thời đại toàn cầu hóa, quốc tế hóa, kinh tế tri thức hiện nay, đổi mới thể chế văn hóa, thúc đẩy văn hóa XHCN phát triển mạnh mẽ, phồn vinh có vai trò quyết định đến thực hiện mục tiêu xây dựng xã hội giàu mạnh, văn minh, đến sự kiên trì con đường XHCN. Chúng ta phải nắm bắt đúng và trúng yêu cầu mới về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, xu thế mới phát triển văn hóa của thời đại, nhu cầu, kỳ vọng mới đối với đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân các dân tộc. Phát triển văn hóa trong thời đại hiện nay cần tăng cường tinh thần trách nhiệm, tự do tư tưởng, chuyển biến quan niệm, nắm chắc cơ hội, trong tiến trình xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nỗ lực tối đa mở ra cục diện mới xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới.

Kiên định con đường phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, đổi mới thể chế văn hóa, thúc đẩy phát triển văn hóa XHCN, phải quán triệt toàn diện tinh thần Đại hội XI của Đảng, lấy việc đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân làm xuất phát điểm và mục tiêu, lấy đổi mới làm động lực, phát triển hướng tới hiện đại hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, hướng tới tương lai, văn hóa XHCN dân tộc, khoa học, đại chúng, nâng cao tinh thần tự giác văn hóa và tự tin vào văn hóa dân tộc, nâng cao tố chất văn minh toàn dân tộc, tăng cường “thực lực mềm” văn hóa của quốc gia.

Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc phải tập trung thúc đẩy văn hóa đi sâu hơn nữa vào lòng người, không ngừng tạo ra cục diện mới để sức sống, sức sáng tạo văn hóa toàn dân tộc phát triển, đời sống văn hóa xã hội ngày càng phong phú hơn, quyền hưởng thụ văn hóa của các tầng lớp nhân dân được bảo đảm tốt hơn, phẩm chất đạo đức và phẩm chất văn hóa khoa học của nhân dân được nâng cao toàn diện, xây dựng nền văn hóa tiên tiến của dân tộc và có đóng góp xứng đáng cho sự phát triển văn hóa tiến bộ của nhân loại.

Để thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững theo tinh thần của “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” chúng ta cần xây dựng hệ thống giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam, phát huy mạnh mẽ hơn phong tục, tập quán đạo đức tư tưởng tốt đẹp, nâng cao phẩm chất, ý thức công dân; sản phẩm văn hóa đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của nhân dân, ngày càng có nhiều tác phẩm hay xuất sắc hơn; hệ thống dịch vụ văn hóa công cộng bao quát toàn xã hội cơ bản được thiết lập, nỗ lực thực hiện bình đẳng trong thụ hưởng dịch vụ văn hóa; công nghiệp văn hóa trở thành một ngành công nghiệp trụ cột trong nền kinh tế quốc dân, thực lực tổng thể và sức cạnh tranh quốc tế tăng cường rõ rệt; thể chế quản lý văn hóa và cơ chế sản xuất kinh doanh sản phẩm văn hóa dồi dào sức sống, hiệu quả cao; đẩy mạnh hội nhập văn hóa lấy văn hóa dân tộc làm căn cốt, quyết định, tiếp thu tinh hoa văn hóa của thế giới, thúc đẩy văn hóa nước ta tiến ra thế giới; đội ngũ nhân tài văn hóa trình độ cao phát triển lớn mạnh. Toàn Đảng, toàn dân phải cùng phấn đấu để thực hiện những mục tiêu này, không ngừng nâng cao tính khoa học hóa của xây dựng văn hóa, tạo cơ sở vững chắc để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới.

Để thực hiện mục tiêu nêu trên, cần tuân thủ phương châm quan trọng sau:

- Kiên trì chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần Đề cương về văn hóa Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Lấy con người làm gốc, bám sát thực tiễn cuộc sống, bám sát nhân dân, phát huy vai trò tích cực, sức sáng tạo của nhân dân trong xây dựng văn hóa; phát triển văn hóa vì nhân dân, phát triển văn hóa dựa vào nhân dân, phục vụ nhu cầu văn hóa của nhân dân, thúc đẩy phát triển toàn diện con người, đào tạo những công dân XHCN có lý tưởng, có đạo đức, có văn hóa, có kỷ luật.

- Ưu tiên hiệu quả xã hội trong phát triển văn hóa, bảo đảm thống nhất hữu cơ giữa hiệu quả xã hội với hiệu quả kinh tế, tuân thủ quy luật phát triển khách quan của văn hóa, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh xây dựng pháp chế văn hóa.

- Kiên định mục tiêu đổi mới theo định hướng XHCN, tập trung thúc đẩy đổi mới thể chế, cơ chế văn hóa, lấy đổi mới thúc đẩy phát triển, không ngừng giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất văn hóa, tăng cường hội nhập văn hóa, nỗ lực đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới, chủ động tiếp thu có chọn lọc thành tựu văn hóa của các dân tộc trên thế giới, quyết tâm bảo vệ an ninh văn hóa quốc gia./.

-------------------------------------

(1), (2), (3), (4), (5), (6) Xem Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 316 - 321
Vũ Văn PhúcPGS, TS. Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
Kiên định và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác lý luận chính trị của Đảng ta
23:0' 24/12/2013
TCCS - Cơ hội và thách thức trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi chúng ta phải vừa kiên định, vừa phát triển sáng tạo không ngừng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của nước ta và xu thế vận động của thời đại, từ đó hoạch định đường lối đúng đắn, tiếp tục đề ra những giải pháp hữu hiệu cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Bài học không thành công của những người cộng sản ở không ít quốc gia vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 thế kỷ XX đã cho thấy một cách thuyết phục về mối quan hệ giữa kiên định và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lê-nin có tầm quan trọng sống còn như thế nào. Trong quá khứ, ở không ít nơi, với không ít người, sự kiên định bị biến thành thói bảo thủ, rập khuôn, tới mức giáo điều; và, sự sáng tạo lại bị bóp méo và nhảy sang thái cực hoặc là thực dụng hoặc là cơ hội, thậm chí xét lại. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin khi bị vi phạm một cách thô bạo, bị làm cho biến dạng, bị xuyên tạc là nguyên nhân dẫn tới chao đảo, đổ vỡ không chỉ trên phương diện chính trị tư tưởng mà còn làm sụp đổ về mặt tổ chức thực tiễn cách mạng một cách nặng nề, tới mức không thể cứu vãn nổi, ở Liên Xô và tại không ít quốc gia xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trước đây, như chúng ta thấy.

Toàn bộ những vấn đề trên, một cách tự nhiên cho thấy rằng, việc định hướng xã hội chủ nghĩa trong công tác nghiên cứu lý luận chính trị, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, không chỉ là quy luật vận động của mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn mà còn là nhu cầu phát triển nội tại của toàn bộ công tác lý luận chính trị của chúng ta nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

Theo ý nghĩa đó, phương hướng hoạt động của công tác nghiên cứu, phát triển lý luận Mác - Lê-nin theo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa mang ý nghĩa chiến lược, vừa đáp ứng yêu cầu bức xúc của thực tiễn, bao gồm một số vấn đề cơ bản sau:

Về phương hướng chung, công tác nghiên cứu lý luận chính trị cần kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu lý luận cơ bản với nghiên cứu triển khai và nghiên cứu ứng dụng nhằm cung cấp luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hoạch định đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Nghĩa là xuất phát từ nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp chặt chẽ với tổng kết thực tiễn đất nước và thâu thái tinh hoa những thành tựu lý luận (mác-xít và ngoài mác-xít) trên thế giới, góp phần hình thành lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thật sự cách mạng, khoa học và khả thi.

Xuất phát từ phương hướng chung đó, phương hướng cụ thể bao gồm  những vấn đề chủ yếu sau:

Thứ nhất, luận chứng một cách khoa học về thời đại ngày nay; về tính tất yếu, thực tiễn và triển vọng của chủ nghĩa xã hội nói chung và sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng, trong bối cảnh thế giới đương đại.

Thứ hai, nghiên cứu và làm rõ tính phổ biến và tính đặc thù của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó, hoạch định đúng đắn mô hình, con đường, phát hiện trúng và đúng động lực, phác thảo một cách lô-gíc, phù hợp và khả thi những chặng đường, bước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Thứ ba, trên bình diện phương pháp luận, xây dựng một cách nhìn toàn diện, lịch sử; đồng thời, phân tích một cách độc lập, sáng tạo những cái cụ thể, trong những tình huống cụ thể của lịch sử về toàn bộ lý luận, thực tiễn và tiền đồ của chủ nghĩa xã hội, xét trong mối liên hệ chằng chịt, phức tạp của thế giới ngày nay. Đặc biệt, làm rõ mối quan hệ tương dung và tương đối, thống nhất và đấu tranh, đối tượng và đối tác... giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay nhằm hoàn thiện phương pháp nghiên cứu lý luận chính trị mác-xít.

Thứ tư, kế thừa một cách có phê phán những thành tựu lý luận đã có của chúng ta cũng như các thành tựu lý luận chính trị trên thế giới.

Thứ năm, thực hành dân chủ nhưng kiên quyết chống lại và tẩy trừ sự chủ quan duy ý chí, giáo điều, cơ hội, xét lại và phản động trong nghiên cứu lý luận và tổ chức hành động thực tiễn; bảo vệ sự đúng đắn, trong sáng của lý luận chính trị và bản thân công tác nghiên cứu lý luận chính trị.

Có thể nói, chỉ có hành động theo phương hướng như vậy, nền lý luận chính trị mới khả dĩ thực sự có cơ hộimôi trường phát triển không ngừng, ngang tầm với sự nghiệp cách mạng hiện nay. Theo đó, công tác nghiên cứu lý luận chính trị của chúng ta mới thực sự xứng đáng với vị trí mà nó chốt giữ, đủ sức thực hiện nhiệm vụ nặng nề theo chức năng mà nó đảm nhiệm.

Vì thế, một cách tự nhiên, trọng trách của công tác lý luận trong quá trình kiên định, bảo vệ, phát triển sáng tạo và hiện thực hóa chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phải coi việc công khai giữ vững, kiên định nguyên tắc tính đảng mác-xít là vấn đề có ý nghĩa thành bại, sinh tử, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa giáo điều và những khuynh hướng cơ hội, xét lại hiện đại. Nếu không, trước sau chúng ta vẫn chỉ là người “ngây thơ khờ khạo”, “vẫn là kẻ ngốc nghếch bị người khác lừa bịp và tự lừa bịp mình về chính trị”, như V.I. Lê-nin từng cảnh báo. Tệ hại hơn, nếu xa rời nguyên tắc đó, chúng ta lập tức mất phương hướng, từ đó hoặc sa vào vũng bùn của các chứng bệnh “tả” hay “hữu” khuynh hoặc rơi vào cạm bẫy của chủ nghĩa giáo điều, thực dụng, cơ hội... một cách vô tình hay cố ý, tất yếu dẫn đến sai lầm về chính trị, khoa học và tổ chức thực tiễn. Rốt cuộc, nhất định sẽ bị thất bại.

Từ xuất phát điểm nguyên tắc đó, hơn bao giờ hết, công tác lý luận phải tự nhận về mình và làm thật tốt trọng trách kết hợp chặt chẽ và nhuần nhuyễn việc nghiên cứu cơ bản chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh với nghiên cứu triển khai thực tiễn trong nước, tiếp thu một cách chọn lọc với thái độ cầu thị kinh nghiệm tốt của các nước khác nhằm tiếp tục góp phần cơ bản và quan trọng trong quá trình hoạch định và quyết sách đường lối chính trị của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

Kinh nghiệm cho thấy, muốn tổ chức thực tiễn cách mạng tốt phải nghiên cứu cơ bản tốt, nếu không rất khó tránh khỏi sự chắp vá. Nhưng, nếu coi chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “nhất thành bất biến”, vô hình trung, đã biến lý luận thành một lược đồ cứng nhắc, thì cũng là sai lầm; và, kỳ thực như thế là đi ngược lại phương pháp của chính các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Và, rốt cuộc, đã tước đi ở học thuyết cách mạng đó khả năng tự phát triển, với tư cách là một khoa học; đồng thời, thủ tiêu tính thực tiễn của nó đối với lịch sử, khi nó là một cương lĩnh hành động cách mạng. Vì, toàn bộ thế giới quan của học thuyết Mác, nói như Ph. Ăng-ghen, không chỉ là một học thuyết mà còn là phương pháp. Nó đưa ra không phải những giáo điều có sẵn mà là những xuất phát điểm để tiếp tục nghiên cứu toàn diện sự vận động của lịch sử.

Vì vậy, nhất thiết phải phát triển lý luận một cách sáng tạo, thông qua nghiên cứu, tổng kết tiến trình tổ chức thực tiễn. Trong quá khứ, ở mức độ này hay khác, sự phát triển lý luận thường được quy thành một sự kết hợp máy móc hai mặt đó đã khiến cho: một mặt, lý luận Mác - Lê-nin bị phá vỡ tính chỉnh thể do tình trạng chắp vá, giáo điều dẫn tới tình trạng lý luận lạc hậu, đường lối mất tác dụng dẫn dắt thực tiễn; mặt khác, thực tiễn lại vận động một cách tự phát, vì thiếu lý luận hoặc lý luận không đủ năng lực dẫn đường. Do vậy, phải bảo đảm sự thống nhất giữa nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu triển khai - thống nhất giữa lý luận với thực tiễn nhằm phát triển lý luận, chủ động đáp ứng những nhu cầu phát triển của thực tiễn, thúc đẩy thực tiễn tiến lên. Lấy thực tiễn để đối chiếu, kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển lý luận, chứ không phải lấy lý luận chứng minh cho thực tiễn. Đảng ta chỉ rõ: Tăng cường tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm kết luận những vấn đề mới và bức xúc từ thực tiễn đặt ra, bảo đảm cụ thể hóa, bổ sung, phát triển đường lối, chính sách của Đảng một cách đúng đắn và sáng tạo. Nói như C. Mác, ở khía cạnh này, mỗi bước tiến của cuộc vận động thực tế còn quan trọng hơn là một tá cương lĩnh. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tránh những giáo điều, xơ cứng trong tư duy lý luận là bí quyết thành công và là sự bảo đảm chắc chắn sẽ luôn tìm được những lời giải đúng đắn cho mọi vấn đề thực tiễn phát triển của đất nước đặt ra, cho dù có những khó khăn phức tạp.

Nhưng, cũng phải thấy rằng, trong tổng kết thực tiễn nhằm phát triển lý luận, trước hết cần bám sát thực tiễn đất nước trên tất cả mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại và đời sống nhân dân lao động. Qua đó, phát hiện, tìm tòi và tổng kết những vấn đề có tính quy luật và quy luật, hoàn thiện không ngừng hệ thống lý luận làm cơ sở bổ sung cho việc hoạch định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Coi trọng thực tiễn không đồng nghĩa với chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm chủ nghĩa. Đề cao lý luận cũng tuyệt nhiên không có nghĩa là đưa ra một thứ lý luận tự thân, “lý luận suông”. Cả hai thái cực đều nguy hiểm như nhau và đồng nghĩa với sự thất bại không tránh khỏi trong nghiên cứu và hiện thực hóa học thuyết Mác - Lê-nin.

Do đó, có mấy lưu ý rằng, trong việc tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận cần kế thừa những thành quả lý luận đã có, nhưng phải kế thừa trên cơ sở phủ định biện chứng nhằm bảo đảm sự nhất quán và phát triển liên tục của quá trình bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận thông qua sự kiểm chứng của thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn để không ngừng bổ sung, phát triển lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mặt khác, trong việc phát triển lý luận, cần phân tích và tiếp thu một cách chọn lọc trên tinh thần phê phán các kinh nghiệm của các nước với thái độ thực sự cầu thị, không xa lánh, không kỳ thị, với phương pháp độc lập, không rập khuôn và không thực dụng. C. Mác và Ph. Ăng-ghen từng khẳng định, học thuyết của các ông không “nhất thành bất biến”. V.I. Lê-nin cũng đã nói rằng: C. Mác và Ph. Ăng-ghen không trói buộc những nhà cách mạng tương lai trong việc vận dụng một cách giáo điều, mà luôn mở ra những chân trời mới cho sự sáng tạo học thuyết và tư tưởng của mình trong sự vận động không ngừng của thực tế khách quan. Vì, học thuyết của C. Mác và Ph. Ăng-ghen là biện chứng, mà “biện chứng tức là học thuyết về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất...”. Và, đã là học thuyết về sự phát triển, thì tự thân nó luôn mang tính cách mạng, khoa học và gợi mở cho sự sáng tạo. Nó cũng phát triển cùng với sự phát triển của thực tiễn trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác. Chủ nghĩa giáo điều và tính cứng nhắc mâu thuẫn với nguyên tắc vận động vĩnh cửu và không ngừng của phép biện chứng mác-xít. Chính vì vậy, Ph. Ăng-ghen đã nhắc lại tư tưởng của mình và của C. Mác khi viết Lời tựa cho Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản bằng tiếng Anh năm 1888, rằng: “Chính ngay “Tuyên ngôn” cũng đã giải thích rõ rằng bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời, và do đấy, không nên quá câu nệ vào những biện pháp cách mạng nêu ra ở cuối chương II”(1).

Đó là con đường bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác một cách khoa học, cách mạng và triệt để; là sự thể hiện sinh động lòng kiên định và hành động phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác nhằm làm cho công tác lý luận thực sự góp phần xứng đáng vào việc hoạch định đường lối chính trị của Đảng ta một cách đúng đắn và phù hợp. Và, chỉ có như thế, chúng ta mới thực sự chủ động đấu tranh có hiệu quả với những quan điểm sai trái, những lực lượng chống lại sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Để việc nghiên cứu di sản lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh thật sự căn cơ và phù hợp, là nền tảng đưa công tác lý luận chính trị của chúng ta tiến lên vững chắc và đúng hướng, cần thực hiện một số yêu cầu đồng thời là nhiệm vụ chủ yếu sau đây:

Một là, nghiêm ngặt giữ vững sự lãnh đạo của Đảng.

Đây là yêu cầu có tính nguyên tắc bất di bất dịch. Đây vừa là một trong những trọng trách của Đảng, một trong những lĩnh vực then chốt của công tác xây dựng Đảng, vừa là tất yếu, là nhu cầu phát triển của chính công tác lý luận chính trị của chúng ta. Đảng phải ngang tầm với nhiệm vụ lãnh đạo đất nước, trọng trách chính trị - lịch sử mà Đảng gánh vác, trước hết là bản lĩnh chính trị, năng lực trí tuệ và trình độ tổ chức thực tiễn chính trị.

Hai là, bảo vệ và phát triển không ngừng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng.

Đây là yêu cầu số một thuộc về chính bản thân Đảng. Không làm được điều này, Đảng không còn là đảng mác-xít chân chính nữa; và do vậy, công tác lý luận chính trị không còn là công tác lý luận chính trị xã hội chủ nghĩa nữa. Có nghĩa, việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác lý luận chính trị cũng bao hàm cả việc làm giàu hơn và phong phú hơn nữa kho tàng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng cách thâu thái trên tinh thần cầu thị khoa học tất cả tinh hoa thành tựu lý luận chính trị - xã hội trên thế giới, mà chính C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin và Hồ Chí Minh là những mẫu mực trên phương diện này. Đó là con đường phát triển của công tác lý luận chính trị và là sự tự hoàn thiện của chính bản thân nền lý luận chính trị của chúng ta.

Ba là, tăng cường tổng kết thực tiễn phát triển lý luận nhằm không ngừng lý luận hóa thực tiễn gắn chặt với thực tiễn hóa lý luận.

Không làm như vậy không thể có bất cứ sự phát triển nào của công tác lý luận chính trị cũng như không thể nói tới bất cứ một sức sống nào của bản thân lý luận chính trị của chúng ta. Nói cách khác, nếu làm khác đi là vô hình trung làm “đông cứng”, làm “khô héo” lý luận chính trị cũng như tự “đóng cửa” hoặc “chặt cụt” con đường phát triển tự nhiên của chính công tác lý luận chính trị của chúng ta.

Trong tiến trình tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận nhằm lý luận hóa thực tiễn gắn chặt với thực tiễn hóa lý luận, cần đặc biệt kết hợp chặt chẽ giữa nghiên cứu lý luận cơ bản với nghiên cứu lý luận ứng dụng và nghiên cứu lý luận triển khai; lấy hiệu quả thực tiễn để kiểm chứng các chế định - “con đẻ” trực tiếp của công tác nghiên cứu lý luận triển khai, hiện thân của công tác nghiên cứu lý luận ứng dụng và mục tiêu của công tác nghiên cứu lý luận cơ bản. Đến lượt chúng, các mặt nghiên cứu lý luận này phải lấy tính hiệu quả thực tiễn làm thước đo giá trị đích thực, làm mục đích hướng tới của mình và từ đó, tự hoàn thiện mình không ngừng. Đó là biện chứng phát triển của công tác lý luận chính trị, sức sống của lý luận chính trị của chúng ta.
Bốn là, xây dựng đội ngũ những nhà lý luận chính trị kiên định lập trường chính trị gắn chặt với việc kiến tạo một đội ngũ những nhà khoa học chuyên ngành và liên ngành nhằm xây dựng một đội ngũ những nhà lý luận xuất sắc, trong đó những nhà lý luận chính trị đóng vai trò nòng cốt.

Thời đại mới và yêu cầu phát triển mới của đất nước đặt ra điều đó. Đó chính là trọng trách của công tác lý luận. Việc xây dựng một đội ngũ những nhà lý luận chính trị xuất sắc của Đảng ta trên nền móng sức mạnh tổng hợp gồm những nhà lý luận về khoa học tự nhiên, khoa học - công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn,... là nhu cầu phát triển tất yếu, một bảo đảm cơ bản có tính quyết định sự phát triển mạnh mẽ, bền vững của công tác nghiên cứu lý luận chính trị và tính thiết thực, khả thi của lý luận chính trị.

Vấn đề đặt ra một cách cấp bách là tiếp tục xây dựng cơ chế nhằm thu hút, tập hợp đông đảo và đầy đủ những nhà khoa học hàng đầu của đất nước đang công tác, học tập và làm việc ở trong và ngoài nước. Đó cũng là biện pháp để nâng cao trí tuệ của Đảng lên ngang tầm sự phát triển của đất nước hiện nay; của mỗi cán bộ nghiên cứu khoa học, trong đó có các nhà khoa học chính trị.

Năm là, xây dựng một cơ chế nghiên cứu khoa học lý luận chính trị một cách cơ bản, thực sự dân chủ và minh bạch.

Đây là công việc rất cần kíp. Cơ chế hoạt động khoa học phù hợp và hữu hiệu là một trong những yếu tố rất quan trọng để xây dựng một nền lý luận chính trị tiên phong. Trước hết, mở rộng không ngừng dân chủ và minh bạch hóa cao độ trong nghiên cứu vừa là yêu cầu, vừa là động lực phát triển của công tác nghiên cứu khoa học nói chung, nghiên cứu lý luận chính trị nói riêng. Thứ hai, tôn trọng ý kiến cá nhân, không độc quyền chân lý, không trù úm quy kết, không a dua, biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác và ý kiến của cơ sở, chống thói cơ hội, thực dụng chính trị... là những yêu cầu tối thiểu của mỗi người, nhất là những nhà lãnh đạo khoa học, nhà chính trị trong nghiên cứu khoa học. Đó cũng là phương châm hành động của mỗi tổ chức nghiên cứu khoa học nói chung, của nghiên cứu lý luận chính trị nói riêng.

Vì vậy, cần xác lập một cơ chế hoạt động bảo đảm để mỗi nhà lý luận chính trị vừa là một cá thể hoạt động độc lập, sáng tạo không ngừng, đầy bản lĩnh trong chỉnh thể đội ngũ những nhà khoa học, vừa là một nhân cách luôn được tôn trọng và biết tôn trọng đồng nghiệp trong tổ chức nghiên cứu khoa học vững mạnh, vừa là một nhà chính trị có nhãn quan sâu rộng, tầm nhìn xa, cương quyết và mềm dẻo. Phải rất coi trọng thưởng, phạt nghiêm minh, công bằng và kịp thời. Đây là động lực rất quan trọng đối với những người làm công tác nghiên cứu lý luận. Bởi bản chất của khoa học nói chung, khoa học chính trị nói riêng là sự minh bạch và khách quan. Nó đối lập với mọi sự giả trá, ngụy tạo và lắt léo. Nó không dung thứ thói a dua, chủ quan, duy ý chí, thực dụng và cơ hội. Nó càng đối lập với thói cường quyền, như nước với lửa. Do vậy, nếu không xác lập quy chế thưởng, phạt nghiêm minh, công bằng và kịp thời trong công tác nghiên cứu lý luận chính trị, thì chúng ta không thể đưa nền lý luận chính trị tiến lên đúng hướng được.

Sáu là, chú trọng sơ kết, tổng kết công tác nghiên cứu lý luận chính trị.

Bài học ngày hôm qua, nếu được sơ kết, tổng kết đúng đắn chính là phương hướng và con đường hành động hiệu quả của ngày hôm nay trên hành trình đi tới tương lai. Đó là con đường để tiếp cận chân lý trong nghiên cứu khoa học chính trị, để tránh sự tụt hậu và khủng hoảng của lý luận chính trị. Đó cũng là một trong những biện pháp quan trọng để xây dựng nền lý luận chính trị của chúng ta. Do đó, ở đây không dung thứ thói thiển cận, cục bộ, thực dụng và cơ hội về khoa học và chính trị. Nói một cách hình ảnh, chính những thói đó sẽ chôn sống một cách “ngọt ngào” và không thương tiếc nền lý luận chính trị mác-xít chân chính.

Đó chính là con đường C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin đã đi và chúng ta tiếp tục đi trên con đường của các ông một cách kiên định và bình tâm, vì sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, sự tiến bộ và văn minh của nhân loại trên quy mô toàn thế giới./.

-----------------------------------------

(1) C. Mác, Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 21, tr. 524


Vũ Văn PhúcPGS, TS, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản
Xây dựng và phát triển văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII
22:56' 28/11/2013
TCCSĐT - Một trong những giải pháp đưa ra trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII là xây dựng, kiện toàn và ban hành hệ thống chính sách, pháp luật về văn hóa và các chính sách liên quan(1). Trong đó, nổi bật lên là chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa.

Đây là điểm nhấn hết sức quan trọng trong tư duy chiến lược về huy động các nguồn lực khác nhau, các chủ thể xã hội (cá nhân, tổ chức xã hội, cộng đồng,…) tham gia đóng góp nhân lực, vật lực, tài lực, trí lực cho văn hóa nói chung, cho hoạt động văn hóa nói riêng: “Chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa nhằm động viên sức người, sức của của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội để xây dựng và phát triển văn hóa. Chính sách này được tiến hành đồng thời với việc nâng cao vai trò, trách nhiệm của Nhà nước. Các cơ quan chủ quản về văn hóa của Nhà nước phải làm tốt chức năng quản lý và hướng dẫn nghiệp vụ đối với các hoạt động xã hội về văn hóa”(2).

Vấn đề là ở chỗ, làm sao và bằng những giải pháp cụ thể nào để huy động được các nguồn lực của các tầng lớp nhân dân với tư cách là chủ thể văn hóa để xây dựng văn hóa; làm sao xã hội hóa các hoạt động văn hóa mà “yếu tố văn hóa” vẫn bảo đảm được tính đại chúng, tính quản lý, tính định hướng, tính hiệu quả, tính công bằng và đặc biệt không bị thương mại hóa, tư nhân hóa, phi chính trị hóa, “phi văn hóa” hóa; làm sao để khi chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa đi vào cuộc sống mọi người dân có thể hưởng thụ nhiều hơn, đóng góp nhiều hơn cho văn hóa.

Xã hội hóa hoạt động văn hóa: mục tiêu và ý nghĩa

Xã hội hoá(3) các hoạt động xã hội được hiểu “Là quá trình vận động, tổ chức các chủ thể xã hội (cá nhân, nhóm, cộng đồng, các tổ chức xã hội) tham gia vào trong các hoạt động xã hội trên cơ sở nhận thức về vai trò và vị thế của mình, từ đó mà giúp cho các hoạt động xã hội phù hợp với sự phát triển của xã hội”(4). Có thể nói, khi đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì công tác vận động các chủ thể xã hội tham gia vào trong các hoạt động xã hội (trong đó bao gồm hoạt động văn hóa) là một việc làm có ý nghĩa chiến lược, nhằm góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan, thực hiện đường lối “tăng trưởng kinh tế đi đôi với giải quyết các vấn đề xã hội”.

Chủ trương xã hội hoá là một trong ba phương hướng để đẩy mạnh sự phát triển xã hội trong đó có lĩnh vực văn hóa, đó là: "chuẩn hoá, hiện đại hoá và xã hội hoá"(5) - ở đây, xã hội hóa được nhận thức là một yếu tố tất yếu và khách quan trong quá trình phát triển xã hội nhằm những mục đích cụ thể sau đây:

Thứ nhất, bảo đảm mối quan hệ của các hoạt động xã hội, đồng thời nâng cao chất lượng của các lĩnh vực hoạt động xã hội với tư cách là một tiểu hệ thống trong hệ thống xã hội. Lấy lĩnh vực văn hóa làm ví dụ, nếu hoạt động văn hóa chỉ do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch "đảm nhận" cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng thì rõ ràng là một khiếm khuyết. Thực tế đã chứng minh văn hóa là sự nghiệp của toàn dân; từng ngành, tổ chức, nhóm xã hội và cá nhân phải có những nhận thức đúng về văn hóa và bản thân các chủ thể xã hội này phải có những phương thức riêng để đóng góp cho từng lĩnh vực trong hoạt động văn hóa. Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận hay coi nhẹ vai trò của bộ chủ quản, càng không phải hô hào cho kiểu "mạnh ai nấy làm" mà xã hội hoá văn hóa là tổ chức và vận động sự tham gia của người dân và toàn xã hội vào phương diện phát triển hoạt động văn hóa theo định hướng, chủ trương của Nhà nước và dưới sự quản lý nhà nước của bộ chủ quản.

Thứ hai, tạo điều kiện cho mọi người thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, bảo đảm tính công bằng xã hội, thực hiện dân chủ hoá xã hội. Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Thông qua xã hội hóa, người dân, các nhóm xã hội mới có điều kiện được tham gia và thể hiện trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với từng lĩnh vực hoạt động xã hội cụ thể.

Thứ ba, tạo ra các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực, trí lực…) cho các hoạt động. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa hoạt động văn hóa nhằm tạo điều kiện pháp lý, tạo cơ chế hoạt động mới khuyến khích sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào các hoạt động này. Nghị quyết 90/CP nêu rõ(6), các cơ sở ngoài công lập không phải nộp thuế VAT, đối với các hoạt động: y tế, văn hóa, biểu diễn nghệ thuật, phát hành và chiếu phim, dạy học, dạy nghề, in xuất bản và phát hành, chuyển giao công nghệ; thuế thu nhập doanh nghiệp được miễn 4 năm đầu và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo; miễn giảm thuế nhà đất và thuế trước bạ… Chính cơ chế thông thoáng này là điều kiện để thu hút các nguồn lực hiện hữu trong xã hội mạnh dạn đầu tư cho các hoạt động văn hóa, tạo ra sự đa dạng trong nguồn lực đầu tư, đa dạng về chủ thể sáng tạo văn hóa.

Thứ tư, phát huy tính chủ động, sáng tạo. Thời bao cấp chúng ta đã thấm thía rút ra nhiều bài học và những tấm gương tày liếp mà một trong những khiếm khuyết đó là thói quen ỷ lại, thụ động trong các hoạt động của những người được "bao" và cả những người được "cấp". Khi thực hiện chủ trương xã hội hoá văn hóa, các chủ thể xã hội có điều kiện để nhận thức đúng về vai trò, vị trí của từng hoạt động xã hội cụ thể trong quan hệ xã hội và phát triển xã hội, đồng thời nhận thức rõ mối quan hệ tương tác giữa hoạt động xã hội và cộng đồng xã hội.

Một số bất cập khi thực hiện xã hội hóa văn hóa

Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa, chính sách này một mặt đã đánh dấu bước phát triển về quản lý trên lĩnh vực văn hóa của Nhà nước nhằm chuyển giao quyền tổ chức, điều hành các hoạt động văn hoá vốn tập trung trong tay Nhà nước sang hướng đa dạng hóa chủ thể quản lý; mặt khác đã và đang mang lại những thành tựu hết sức to lớn trong tất cả các lĩnh vực của hoạt động văn hóa. Dễ thấy rằng, việc thực hiện chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa trong thời gian qua đã huy động được mọi nguồn lực trong xã hội đứng ra chăm lo các hoạt động văn hóa, tổ chức và điều hành quá trình sản xuất sản phẩm và dịch vụ văn hoá theo đúng pháp luật của Nhà nước. Điều đáng quan tâm là người dân đã thực sự được hưởng thụ những giá trị từ hoạt động văn hóa và dần trở thành những chủ thể xã hội về lĩnh vực văn hóa. Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả đáng ghi nhận đó, vẫn còn tồn tại một số vấn đề:

Thứ nhất, vai trò quản lý của Nhà nước về văn hóa ở một số nơi, địa phương, lĩnh vực còn lỏng lẻo; hiện tượng lệch lạc khi nhận thức về văn hóa nói chung, về tổ chức các hoạt động văn hóa nói riêng còn diễn ra tương đối phổ biến, thiếu đi tính định hướng và tính quản lý của Nhà nước. Rõ ràng, khi thực hiện chủ trương xã hội hóa với việc đa dạng hóa các loại hình, nguồn lực trong các hoạt động văn hóa, chắc chắn sẽ tạo nên sự cạnh tranh gay gắt theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh của thị trường. Do đó, bài toán quản lý cần phải được đặt ra và Nhà nước cần phải tăng cường vai trò quản lý của mình với tư cách là chủ thể chính yếu trong công tác ban hành chính sách, thực thi chính sách, giám sát các hoạt động về văn hóa.

Thứ hai, trách nhiệm của hệ thống chính trị cơ sở, các tổ chức chính trị xã hội và cộng đồng vẫn chưa thể hiện rõ nét trong các hoạt động văn hóa, đôi khi còn “nhường nhau”, “dẫm chân lên nhau” bởi chưa hiểu đúng về “cộng đồng hóa trách nhiệm”. Xã hội hoá hoạt động văn hóa là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế - xã hội lành mạnh và thuận lợi cho hoạt động văn hóa. Ở mỗi địa phương, đây là trách nhiệm của Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp đóng tại địa phương và của từng người dân.. Tuy vậy, cộng đồng hoá trách nhiệm không phải là tạo ra một "cha chung" để rồi "không ai khóc"; cộng đồng hoá trách nhiệm không phải là gán trách nhiệm cho cộng đồng hay giảm bớt phần trách nhiệm của Nhà nước. Trái lại, cộng đồng hóa trách nhiệm thì trách nhiệm của Nhà nước càng cao và mỗi tổ chức xã hội, cá nhân cần có những trách nhiệm cụ thể để thực hiện vai trò và khẳng định vị trí của mình trong các hoạt động xã hội. Như vậy, để đẩy mạnh các hoạt động văn hóa thì cần phải cụ thể hóa trách nhiệm cho từng chủ thể xã hội trong cộng đồng khi tham gia vào hoạt động văn hóa, tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” trong tiến trình xúc tiến hoạt động văn hóa.

Thứ ba, hiện tượng thương mại hóa, phi chính trị hóa, tự do hóa đã và đang xuất hiện trong hoạt động văn hóa, điều này làm cho hoạt động văn hóa nói chung, bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa nói riêng đang đứng trước những nguy cơ và thách thức lớn. Nếu chỉ quan sát trong lĩnh vực hoạt động nghệ thuật, chúng ta không khó để phát hiện ra một số hiện tượng thương mại hóa và tự do hóa quá trớn như một số người có tiền đứng ra làm đầu nậu đưa các sản phẩm nghệ thuật (sân khấu, điện ảnh, ca nhạc…) chạy theo thị hiếu tầm thường, hạ thấp giá trị nghệ thuật. Không phải ngẫu nhiên mà có ý kiến cho rằng, cơ chế xã hội hóa văn hóa có thể làm cho một số cá nhân, tổ chức lợi dụng, làm giàu bất chính như độc quyền trong một số hoạt động văn hóa, các tác phẩm văn hóa, các giá trị nghệ thuật; xem văn hóa là “mảnh đất màu mỡ” để đầu tư trục lợi. Như vậy, việc lợi dụng cơ chế để trục lợi từ những hoạt động văn hóa và thương mại hóa văn hóa là những biểu hiện của sự bất cập trong quản lý nhà nước về văn hóa hiện nay.

Chúng ta thừa nhận rằng, xã hội hoá tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân, tổ chức có điều kiện tham gia vào hoạt động văn hóa với tư cách là chủ thể văn hóa. Do đó, không ngoại trừ những thế lực thù địch lợi dụng, núp dưới các chiêu bài khác nhau để chống phá cách mạng, phá hoại những thành quả hiện có, chính điều này đã làm cho nguy cơ phi chính trị hoá rất cao mà chúng ta phải nhìn trước để có những biện pháp ngăn chặn. Ngoài ra, nếu không có định hướng đúng, những chế tài thích hợp thì xã hội hoá văn hóa sẽ dễ bị rơi vào tự do hoá quá trớn. Rõ ràng vấn đề này đã phát sinh trong thực tiễn của hoạt động văn hóa, thời gian gần đây đã xuất hiện những hình thức tổ chức như phát hành các văn hóa phẩm, tổ chức các buổi biểu diễn, tổ chức các lễ hội,… vượt ra ngoài sự kiểm soát của cơ quan Nhà nước.

Thứ tư, chủ trương xã hội hóa văn hóa, phải bảo đảm tính công bằng, hiệu quả, khả thi, phổ quát,… Trong điều kiện tổng nguồn lực xã hội có hạn, việc xác định đâu là lĩnh vực hoạt động mà Nhà nước cần can thiệp mạnh, đầu tư nhiều; đâu là phần để cho khu vực tư nhân tham gia có ý nghĩa rất quan trọng. Để đạt được tính hiệu quả, các nguồn lực công cộng phải được phân bổ theo hướng tập trung vào những lĩnh vực mang lại lợi ích cho xã hội cao nhất, mang lại hiệu quả thiết thực nhất. Tuy vậy, khi tổ chức thực hiện, các chủ thể xã hội tham gia vào hoạt động văn hóa thường chỉ chú ý đến vấn đề “thương mại” trong văn hóa, tức là hoạt động văn hóa chỉ chú trọng đến khu vực đông dân như đồng bằng và đô thị mà “bỏ quên” vùng núi và vùng dân tộc thiểu số, một thành tố quan trọng trong định chế văn hóa. Đây chính là hạn chế, tồn tại và cũng là khó khăn lớn cần nhìn nhận, đánh giá và có những giải pháp khắc phục trong thời gian tới.

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách xã hội hóa văn hóa 

Trong bối cảnh hiện nay thì vấn đề bảo tồn phát huy những giá trị văn hóa nói riêng, xây dựng hệ thống chính sách về văn hóa nói chung là một vấn đề hết sức trọng đại trong chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam cũng như trong chiến lược phát triển bền vững của đất nước. Để làm được điều đó, chúng ta cần có những hệ thống chiến lược, chính sách; không ngừng quán triệt và sàng lọc những hạt nhân hợp lý và xuyên suốt từ những chính sách văn hóa mà Đảng và Nhà nước đã đề ra, trong đó có Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và các chính sách liên quan. Để thực hiện tốt hơn nữa chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa, thiết nghĩ cần có những giải pháp sau:

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về đường lối, chủ trương, chính sách, cơ chế khuyến khích của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa, từng bước nâng cao nhận thức về nội dung, ý nghĩa, tính chất của công tác xã hội hóa hoạt động văn hóa. Để làm tốt công tác này cần phải có sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị và của toàn thể nhân dân với tư cách là chủ thể văn hóa. Công tác tuyên truyền cần phải thường xuyên, liên tục kết hợp với các kênh truyền thông đại chúng khác nhau để tuyên truyên nội dung, ý nghĩa, mục đích của chủ trương xã hội hóa văn hóa. Từ đó, góp phần nâng cao nhận thức của toàn xã hội về văn hóa và xã hội hóa văn hóa.

Hai là, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về xã hội hóa các hoạt động văn hóa. Từng bước sàng lọc ra những hạt nhân để nhân rộng; khắc phục những tồn tại, vướng mắc trong tổ chức thực hiện xã hội hóa văn hóa. Chủ trương xã hội hóa đi vào cuộc sống và sẽ được phản ánh thông qua các hoạt động nghiên cứu lý luận và đúc kết thực tiễn. Chính hoạt động này cũng góp phần nâng cao nhận thức về ý nghĩa và tầm quan trọng của chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa của Đảng và Nhà nước ta.

Ba là, cần thể chế hóa vai trò xã hội của các chủ thể xã hội khi tham gia vào hoạt động văn hóa. Xã hội hóa văn hóa thì Nhà nước huy động, tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân vào hoạt động này, đa dạng hoá các nguồn lực, tạo điều kiện cho mọi người có khả năng tham gia vào sự nghiệp văn hóa. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc Nhà nước đã thể chế hoá những vai trò cho từng chủ thể xã hội, giúp họ có điều kiện thể hiện vai trò trong từng lĩnh vực hoạt động. Đương nhiên, cần có quy định cụ thể cho từng vùng, từng đối tượng. Tạo hành lang pháp lý, tư cách pháp nhân cho các cá nhân và những tổ chức xã hội. Chính những đối tượng này phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình khi tham gia vào quá trình xã hội hoá. Khi thể chế hóa vai trò sẽ góp phần giảm thiểu hiện tượng lệch lạc xã hội khi tham gia vào hoạt động văn hóa, đồng thời đưa các hoạt động này đi đúng theo chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước.

Bốn là, tăng cường công tác quản lý nhà nước về văn hóa, từng bước khắc phục những biểu hiện lệch lạc trong các hoạt động văn hóa, đặc biệt là hiện tượng phi chính trị hóa, tự do hóa và thương mại hóa trong văn hóa. Để làm được điều này, các cấp chính quyền cần quyết liệt hơn trong công tác kiểm tra, giám sát của Nhà nước về văn hóa. Sớm phát hiện những hiện tượng lệch lạc trong hoạt động văn hóa để có đối sách điều chỉnh, uốn nắn, khắc phục; kiên quyết dẹp bỏ và loại trừ những cá nhân, tổ chức lợi dụng văn hóa để trục lợi và làm méo mó các hình tượng văn hóa, làm biến dạng các nét văn hóa truyền thống; lợi dụng hoạt động văn hóa để chống phá Đảng, Nhà nước; lôi kéo, kích động nhân dân tổ chức và tham gia vào các hoạt động phản văn hóa, phi văn hóa, gây nên những bất ổn và mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân và giữa các nhóm xã hội khác nhau.

Năm là, bảo đảm tính công bằng và bình đẳng trong hoạt động văn hóa trong từng hoạt động, từng vùng miền, từng chủ thể xã hội. Văn hóa là của nhân dân, vì nhân dân, do đó khi chủ trương xã hội hóa văn hóa cần phải chú ý đến yếu tố công bằng và bình đẳng, bảo đảm cho mọi thành phần dân cư, mọi vùng miền, mọi đối tượng đều có quyền và nghĩa vụ như nhau trong hưởng thụ và đóng góp cho văn hóa. Bảo đảm tính công bằng và hiệu quả trong hoạt động và hưởng thụ văn hóa, vừa là chất xúc tác cho các nét văn hóa không bị mai một, có điều kiện giao thoa và làm cho văn hóa đậm đà hơn. Chính nó cũng là cơ chế để “phát huy vai trò của các đoàn thể quần chúng, các tổ chức sáng tạo văn hóa - văn nghệ trong việc vận động, tổ chức quần chúng, giới trí thức thực hiện nhiệm vụ văn hóa, làm chủ văn hóa” như tinh thần của Nghị Quyết đề ra./.
------------------------------------------

(1) Nghị quyết Trung ương 5 Khóa VIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phần thứ ba về “Những giải pháp lớn xây dựng và phát triển văn hóa”, 16-7-1998.

(2) Nghị quyết Trung ương 5 Khóa VIII, Ban chấp hành Trung ương Đảng, trích nội dung của Nghị quyết về giải pháp “Các chính sách văn hóa trong kinh tế”, 16-7-1998.

(3) Xã hội hóa (sociolization) được hiểu theo hai tầng nghĩa khác nhau: một chỉ quá trình xã hội hóa cá nhân tức là quá trình mà qua đó, biến một “con người tự nhiên” trở thành “con người xã hội” thông qua các môi trường xã hội như: gia đình, nhà trường, nhóm xã hội, truyền thông đại chúng,…; trên tầng diện thứ hai dùng để chỉ quá trình mà nhà nước kêu gọi và huy động các nguồn lực xã hội vào trong các hoạt động xã hội như giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, nghệ thuật,…

(4) Xem: Phạm Đi, “Hiểu thế nào là đúng về chủ trương xã hội hóa các hoạt động xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Sinh hoạt lý luận số 4(98), 2008.

(5) Ngay từ “Đề cương văn hóa” năm 1943, Đảng ta đã đề ra phương châm xây dựng nền văn hóa “Khoa học - Dân tộc - Đại chúng”. Có nghĩa rằng văn hóa phải thuộc về nhân dân, phục vụ nhân dân và nhân dân có quyền và nghĩa vụ tham gia vào quá trình sáng tạo, phát huy các giá trị văn hóa. Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII đã nhấn mạnh đến vấn đề xã hội hóa hoạt động văn hóa như là điểm nhấn để huy động sức người, sức của từ các tổ chức xã hội để xây dựng vào phát triển văn hóa. Đến Đại hội IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định “Các chính sách xã hội được tiến hành theo tinh thần xã hội hóa” (Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thức IX của Đảng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, tr.108).

(6) Xem: Nghị quyết 90-CP của Chính phủ ngày 21-8-1997 về Phương hướng và chủ trương xã hội hóa các họa động giáo dục, văn hóa, y tế, văn hóa.
TS. Phạm ĐiHọc viện Chính trị - hành chính Khu vực III (Đà Nẵng)
Biến đổi trong hệ chuẩn mực đạo đức xã hội ở nước ta trước tác động của nền kinh tế thị trường
22:44' 14/1/2014
TCCS - Kể từ Đại hội VI của Đảng (năm 1986), đất nước ta từ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một bước phát triển về tư duy của Đảng và của xã hội, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại.

Nhờ đó, đất nước đã vượt qua khủng hoảng, khắc phục tình trạng trì trệ trước đây. Từ một nước nghèo nàn và lạc hậu, đất nước đang vươn tới một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhiều khu đô thị hiện đại được mọc lên khắp nơi, diện mạo đất nước đổi thay, khởi sắc.

Có một thực tế ở nước ta cũng như ở nhiều nước khác là sự phát triển về đời sống vật chất đã không tỷ lệ thuận với đời sống văn hóa tinh thần và các giá trị đạo đức xã hội cần có để phát triển hài hòa và bền vững. Các đại hội Đảng gần đây đều nhận định, đánh giá tình trạng suy thoái về đạo đức đang diễn ra. Văn kiện Đại hội XI đã chỉ ra rằng: “Môi trường văn hóa bị xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh, thiếu niên, rất đáng lo ngại”(1), rằng: “Xu hướng thương mại hóa và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội”... “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”(2).

Sự xuống cấp về đạo đức xã hội như đã nói đang diễn ra chính là kết quả của những biến động, biến đổi trong hệ chuẩn mực đạo đức xã hội ở nước ta. Vậy quá trình biến động và biến đổi đó đã diễn ra như thế nào?

Đạo đức, lối sống là những vấn đề cốt lõi trong đời sống văn hóa của mỗi cá nhân, cộng đồng và dân tộc. Sự ổn định hay không ổn định, phát triển hay suy thoái của các quốc gia thường có quan hệ trực tiếp với vấn đề đạo đức xã hội. Để hình thành những chuẩn mực đạo đức và lối sống tốt đẹp, đòi hỏi một thời gian khá dài, có khi phải vài ba thế hệ. Nhưng để phá bỏ những chuẩn mực có giá trị và thay vào đó những phản giá trị thì chỉ cần một thời gian rất ngắn.

Việc xây dựng đạo đức và lối sống có văn hóa hiện nay không thể không bắt đầu bằng sự nhận diện các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc. Lịch sử dạy chúng ta rằng để giải quyết những vấn đề hiện tại của đời sống xã hội, không thể không trở về với những bài học của quá khứ của cha ông. Mặt khác, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường và của xu thế toàn cầu hóa với tính hai mặt của nó, mỗi người Việt Nam cần nhận biết chúng ta là ai và từ đâu tới. Không nhận biết được những điều đó thì làm sao có thể xác định hướng đi của chúng ta sẽ về đâu. Nhận diện được các giá trị truyền thống cũng là điều kiện tham chiếu cực kỳ quan trọng để nắm bắt được những biến động, biến đổi trong hệ chuẩn mực đạo đức xã hội đang diễn ra.

Dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển trong điều kiện tự nhiên và xã hội vốn rất khắc nghiệt. Những cuộc chinh phục vĩ đại trong lịch sử để chiếm lĩnh vùng đất sình lầy và đầy thú dữ, với những rủi ro thiên tai thường xuyên đe dọa đã hình thành nên bản lĩnh và khí chất của người Việt cổ mà các giai đoạn của nền văn minh sông Hồng xếp lớp qua các thời đại khảo cổ học đã cho chúng ta niềm tự hào to lớn về tổ tiên, cha ông... Ngoài ra, đất nước Việt Nam có vị trí chiến lược quan trọng, dễ bị nhiều thế lực nhòm ngó, xâm lăng. Trong bối cảnh đó, để tồn tại và phát triển, tổ tiên người Việt đã phải tự gồng mình lên để có thêm sức mạnh vật chất và tinh thần. Quá trình đó đã dần hình thành nên những phẩm giá can trường và nhân ái cần thiết để xây dựng mối quan hệ giữa con người với con người. Đó là môi trường thuận lợi để các giá trị đạo đức và lối sống được đặc biệt coi trọng.

Chính vì vậy, chủ nghĩa nhân văn đã trở thành một triết lý, một đạo lý sống của người Việt Nam. Những câu nói: “Thương người như thể thương thân”, “Lá lành đùm lá rách”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng”,... đã trở thành câu nói cửa miệng của người Việt Nam trong rất nhiều hoàn cảnh khác nhau. Phải chăng đó là giá trị nổi bật nhất trong đạo đức truyền thống của dân tộc, và cũng là cội nguồn của sức mạnh đưa dân tộc ta vượt qua bao thử thách, khó khăn của thiên nhiên và của lịch sử.

Quan điểm coi con người và giá trị con người là trung tâm đã trở thành chuẩn mực có tính truyền thống cho việc hình thành đạo lý làm người và nhân cách con người Việt Nam. Người Việt Nam biết tôn trọng và đề cao các giá trị tinh thần. Ngay trong những điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn và thiếu thốn, cha ông ta vẫn dạy con cháu: “Lời chào cao hơn mâm cỗ”, “Tốt danh hơn lành áo”... Giữa sự giàu sang phú quý với phẩm giá con người, cha ông ta biết coi trọng phẩm giá con người hơn là sự giàu sang phú quý. Như vậy, về phương diện tâm lý và triết lý sống, người Việt Nam quen đề cao, quý trọng các giá trị tinh thần - những cái làm nên phẩm giá thực sự của con người, là nền tảng để hình thành những nhân cách cao đẹp và được mọi giai tầng xã hội chấp nhận, tôn vinh.

Tinh thần vì nghĩa (hay nghĩa khí) đã trở thành nét chủ đạo xuyên suốt trong đời sống cũng như trong các tác phẩm văn học dân gian và văn chương bác học qua các thời đại. Nó là một phẩm chất không thể thiếu để gắn kết con người với con người, và qua đó, trở thành bệ phóng thần kỳ để tạo nên những chiến công hiển hách trong các cuộc chiến tranh giữ nước và phòng, chống thiên tai để bảo vệ tính mạng và tài sản của nhân dân.

Trong các cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm trước đây, đặc biệt qua hai cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta trực tiếp lãnh đạo, các giá trị đạo đức tinh thần của dân tộc đã phát huy sức mạnh to lớn và có tính quyết định cho mọi thắng lợi. Nữ nghệ sĩ Mỹ Gi. Phôn-đa, sau chuyến thăm miền Bắc Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, đã viết: “Chúng tôi tự hỏi tại sao và làm thế nào một nước nhỏ về địa lý như nước Việt Nam mà không sợ sức mạnh kỹ thuật của Mỹ, lại có thể ngăn chặn được sự tiến công hung bạo của đủ các loại vũ khí Mỹ. Ấy là bởi vì các bạn biết tại sao các bạn chiến đấu, bởi vì các bạn đã đặt giá trị con người chứ không phải lợi nhuận hay bạo lực ở trung tâm của mọi sự vật”(3) Đó là một nhận xét rất sâu sắc về triết lý, văn hóa và đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam.

Từ sau năm 1986, với Đại hội VI của Đảng, đất nước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Đó là bước ngoặt lớn trong đời sống kinh tế - xã hội, tác động trực tiếp không chỉ đến đời sống vật chất mà cả đời sống tinh thần của nhân dân. Bước ngoặt đó đã và đang tạo nên những biến động, biến đổi lớn trong hệ chuẩn mực đạo đức xã hội ở nước ta.

Vấn đề đặt ra là từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đến nay, sau gần 30 năm vận hành và tìm tòi những lộ trình phù hợp, chúng ta vẫn chưa hiểu thật đầy đủ cả về lý luận lẫn thực tiễn nền kinh tế đó. Tình hình đó dẫn tới một thực tế là: trong khi chúng ta chưa phát huy hết mặt tích cực của kinh tế thị trường, thì mặt tiêu cực của nó lại thao túng, ảnh hưởng trên cả lĩnh vực sản xuất vật chất và sự sáng tạo, sàng lọc các giá trị tinh thần, đạo đức. Tình hình càng trở nên phức tạp hơn, khi xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang phải đối diện là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Điều này nhiều học giả trên thế giới đã nhận định: toàn cầu hóa kinh tế hiện nay thực chất là toàn cầu hóa kinh tế tư bản chủ nghĩa. Khi kinh tế thị trường bị chủ nghĩa tư bản chi phối, thì đương nhiên nó sẽ hy sinh phần xã hội cho kinh tế, nó duy trì sự phân hóa giàu nghèo, tạo nên sự sa sút về đạo đức và sự tha hóa con người... như C. Mác đã nói.

Tính chất hai mặt của kinh tế thị trường ở nước ta cũng thường xuyên được đề cập qua các kỳ đại hội Đảng, rằng đời sống vật chất của xã hội được nâng lên, cải thiện rõ rệt, nhưng đời sống tinh thần, đạo đức xã hội thì xuống cấp, mà một trong những nguyên nhân quan trọng là do chúng ta chậm nhận thức ra mặt trái của kinh tế thị trường. Nói đến những biến đổi, biến động trong hệ chuẩn mực đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay thực ra là bàn về tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức xã hội. Đạo đức cũng như văn hóa, là văn hóa. Bao giờ nó cũng nằm trong kinh tế và chính trị, chịu sự quy định khá chặt chẽ của kinh tế và chính trị. Không thể bê nguyên xi các chuẩn mực đạo đức của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước mang tính tự cung tự cấp vào trong xã hội hiện đại. Trái lại, cũng không thể phủ nhận những nguyên tắc có tính hằng số của đạo đức xã hội truyền thống. Chính các nguyên tắc đó tạo nên tính liên tục của sự phát triển xã hội, sự gắn kết giữa quá khứ với hiện tại và tương lai, sự gặp gỡ giữa các quốc gia, dân tộc. Cố nhiên, trên nền tảng chung của những nguyên tắc đạo đức cổ truyền, xã hội hiện đại cũng đặt ra những vấn đề mới. Lao động và giao tiếp xã hội là hai lĩnh vực cơ bản của đời sống, ở đó thể hiện rất rõ hệ giá trị đạo đức của xã hội. Sự biến động về đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cũng thể hiện tập trung trên hai lĩnh vực này. Trước kia, với kỹ thuật thô sơ, người nông dân luôn miệt mài trên đồng ruộng, để sản xuất ra lúa gạo nuôi sống gia đình mình và xã hội. Để có hạt gạo, bát cơm, họ phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt: Ai ơi bưng bát cơm đầy / Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần... Đó là lời nhắn gửi chất chứa đạo lý là phải trân trọng biết ơn những người nông dân chịu đựng gian khó làm ra sản phẩm nuôi sống cả xã hội.

Từ sau Cách mạng Tháng Tám 1945, nhất là qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, vấn đề đạo đức xã hội càng được quan tâm giáo dục thường xuyên. Khái niệm cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư không chỉ được vận dụng trong lao động sản xuất, mà còn trong tất cả các hoạt động xã hội, trong mọi tổ chức, địa bàn dân cư... Một phong trào yêu nước rộng lớn đã xuất hiện ở khắp mọi nơi. Kết quả là đã xuất hiện các anh hùng, chiến sĩ thi đua, các đơn vị và tập thể điển hình tiên tiến. Tất cả các đơn vị và cá nhân tiêu biểu đều có chung một phẩm chất đem hết sức mình cống hiến cho xã hội, cho đất nước, cho nền độc lập dân tộc. Khi ấy, lợi ích cá nhân và tính cục bộ địa phương, đơn vị bị cho là thứ yếu.

Khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường, chúng ta đã khắc phục thiếu sót của tư duy cũ bằng cách quan tâm nhiều hơn đến lợi ích trực tiếp của người lao động. Nhờ đó năng suất lao động được nâng cao, sản phẩm xã hội tăng nhanh, đời sống người dân được cải thiện. Nhưng, sự quan tâm đến lợi ích của người lao động lại không song hành với việc giáo dục ý thức trách nhiệm xã hội của mỗi người, thậm chí vấn đề giáo dục đạo đức xã hội bị coi nhẹ. Nếu trước đây các khái niệm lý tưởng, khát vọng, là những điều gần gũi, thiêng liêng, thường xuyên được nhắc tới, thì ngày nay các khái niệm đó lại ít được đề cập. Khi con người phai nhạt lý tưởng, thiếu những khát vọng cao đẹp, thì nó thường bị trói buộc vào những tham vọng thấp kém. Tư tưởng chạy theo đồng tiền, chạy theo lợi ích vật chất trong một bộ phận xã hội (kể cả người lao động làm ra vật chất hay sản xuất ra sản phẩm tinh thần) đã dẫn tới hiện tượng tha hóa trong lao động. Có nghĩa là quá trình lao động cũng là quá trình đánh mất bản ngã. Các sản phẩm lao động, trong một số trường hợp, không thể hiện trình độ tay nghề, ý thức trách nhiệm và cả lương tâm của người lao động. Trái lại, nó bị chi phối trực tiếp bởi lợi ích, lợi nhuận tầm thường trước mắt. Đây là nguyên nhân dẫn tới tình trạng xuất hiện ngày càng nhiều hàng hóa kém chất lượng, hàng giả, thậm chí cả hàng hóa độc hại. Cũng vì lợi ích cá nhân, không ít cán bộ đã quên lãng trách nhiệm xã hội của mình, gây nhiều phiền hà cho người dân khi thực thi công vụ. Nạn vòi vĩnh, tham nhũng, đòi hối lộ tràn lan.

Khi hoạt động lao động không thể hiện được giá trị đạo đức, bị tha hóa, nó sẽ tác động xấu đến các mối quan hệ xã hội, từ quan hệ cung cầu trong sản xuất hàng hóa, quan hệ phục vụ và được phục vụ trong các cơ quan hành chính công, trong trường học, bệnh viện và cả quan hệ trong gia đình. Có nghĩa là giao tiếp xã hội cũng xuống cấp.

Dân tộc ta vốn có truyền thống sống tình nghĩa với nhau. Tình nghĩa đã chi phối mọi quan hệ giao tiếp xã hội. Ngày nay, trước tác động của mặt trái của kinh tế thị trường, không ít người đã chạy theo xu hướng thực dụng, vụ lợi, bất chấp tình nghĩa. Lối sống cơ hội, nịnh bợ, “gió chiều nào theo chiều ấy”... đang làm vẩn đục các quan hệ. Sự phân cấp, phân tầng xã hội theo địa vị, chức vụ, tài sản diễn ra khá nặng nề. Người dân cảm thấy khép nép, lo lắng, khi có việc đến cơ quan công quyền. Nhiều vụ, việc tiêu cực ở các địa phương, các đơn vị bị bỏ qua, không ai dám phanh phui...

Trong khi các quan hệ ngoài xã hội đang suy giảm, thì gia đình là bến đỗ của con người cũng đang bị lung lay, xung đột vì các lợi ích cá nhân. Xu thế giải thể gia đình nhiều thế hệ diễn ra trên thế giới cũng đang tác động tới nước ta. Mối quan hệ ràng buộc các thành viên gia đình trong một tổ ấm đang bị đe dọa. Nhiều vụ ly hôn, ly thân, hôn nhân ngoài giá thú, hôn nhân thử nghiệm xuất hiện làm mất đi tính chất thiêng liêng trong quan hệ gia đình cùng với sự gia tăng nạn bạo hành gia đình, bạo lực học đường đã làm cho xã hội bất an, tác động trực tiếp đến thế hệ trẻ.

Những biểu hiện về suy giảm đạo đức nói trên không chỉ diễn ra trong người dân, mà đáng tiếc, trong đó có cả một số cán bộ, đảng viên. Cố nhiên, đối với cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người có chức có quyền, thì sự suy thoái về đạo đức còn có những biểu hiện tha hóa riêng. Đó là tệ quan liêu, thói đam mê quyền lực, thói hách dịch, tham nhũng, hối lộ, hủ hóa. Trong những năm cuối đời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhiều lần tỏ ra bức xúc trước các hiện tượng đó, đặc biệt hiện tượng đam mê quyền lực. Ông đã ví thói đam mê quyền lực như nghiện ma túy. Ai bập vào thì khó mà từ bỏ. Đam mê quyền lực sẽ làm hủy hoại nhân cách con người. Nhận định đó đang được chứng thực trong thực tế. Tệ “chạy chức”, “chạy quyền” cũng đã xuất hiện làm cho quyền lực không còn là trách nhiệm pháp lý, mà đôi khi bị biến thành hàng hóa.

Một biểu hiện khác của sự suy thoái về đạo đức trong cán bộ đảng viên là lời nói không đi đôi với việc làm, thiếu sự trung thực với những người khác và với chính mình. Trước quần chúng thì luôn nói rành mạch theo các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, luôn nhắc đến trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên, nhưng khi thực thi quyền lực thì họ chỉ hướng vào lợi ích cá nhân, lợi ích phe nhóm.

Sự xuất hiện của một số kẻ cơ hội chủ nghĩa cũng là một biểu hiện về suy thoái đạo đức và chính trị hiện nay. Đặc điểm nổi bật và chung nhất của những người này là trong mọi hành vi và mối quan hệ, đều tìm cách lợi dụng thời cơ để trục lợi. Loại người này sẵn sàng đánh mất lương tâm và danh dự của mình. Họ rất giỏi luồn lách, xu thời, mạnh ai thì theo người đó, việc gì có lợi cho bản thân thì làm, ra sức xoay xở.

Từ những phân tích nêu trên, có thể nêu ra những biến đổi, biến động trong hệ chuẩn mực đạo đức xã hội ở nước ta trong kinh tế thị trường hiện nay như sau:

1- Dù đang bước vào kinh tế thị trường, nhìn chung nhân dân ta vẫn giữ được các giá trị đạo đức truyền thống, đại đa số nhân dân vẫn tôn vinh các giá trị đạo đức nền tảng và cốt lõi. Kết quả điều tra xã hội học về những đức tính cần có đối với người phụ nữ hiện nay, có 91,1% khẳng định phụ nữ phải biết yêu thương gia đình, 82,2% cho rằng phải có lòng chung thủy, 80,9% cho rằng phải chăm sóc con cái tốt(4).

2- Tuy vậy, những biến đổi và biến động trong hệ chuẩn đạo đức đang diễn ra ngày càng phức tạp, đan xen những nhân tố tích cực và tiêu cực, trong đó xu hướng tiêu cực có lúc “trồi” lên mạnh, trở thành nỗi lo chung của toàn xã hội. Sự biến đổi và biến động đó diễn ra trên tất cả các khía cạnh trong đời sống, từ đạo đức đến lối sống, từ lao động, công tác đến giao tiếp và ứng xử xã hội, từ gia đình, nhà trường đến các cơ quan công sở, xí nghiệp,... Đáng lưu ý nhất là đã xuất hiện sự lệch chuẩn về đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ của xã hội:

- Từ một xã hội mang tính cộng đồng, đề cao tính cộng đồng, đã xuất hiện lối sống ích kỷ, tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân, coi nhẹ lợi ích cộng đồng.

- Từ một xã hội coi trọng tình nghĩa nhân ái, bao dung, đã xuất hiện lối sống vô cảm, thờ ơ với những khó khăn và khổ đau của người khác.

- Từ một xã hội đề cao các giá trị tinh thần, đã xuất hiện lối sống tôn thờ đồng tiền, chạy theo các giá trị vật chất, bỏ qua phẩm giá và nhân cách con người.

Những lệch chuẩn ấy đang tác động xấu đến mọi quan hệ xã hội và làm phát sinh các tệ nạn xã hội.

Lao động vốn là nghĩa vụ, quyền lợi của mỗi con người. Thông qua lao động, xã hội được phát triển, con người dần dần được hoàn thiện. Trong điều kiện của kinh tế thị trường, do tác động của mặt trái của nó chưa được khắc phục thì nguyên tắc công bằng xã hội bị vi phạm; lợi nhuận trở thành mục tiêu duy nhất của hoạt động kinh tế; ý thức trách nhiệm xã hội trong lao động, và quyền được lao động bị vi phạm... Đó sẽ là cơ sở xã hội để xuất hiện hiện tượng tha hóa trong lao động. Sự xuất hiện không ít những “công ty ma”, những doanh nhân giả với nhiều thủ đoạn kinh doanh bất chấp pháp luật và đạo lý làm người rất khó kiểm soát.

Chủ nghĩa thực dụng, tâm lý ích kỷ đang làm suy yếu các quan hệ thiêng liêng trong gia đình. Nó làm rạn vỡ các thuần phong mỹ tục, kỷ cương và gia phong mà dân tộc ta đã xây nên qua nhiều thế hệ. Ngay trong hôn nhân - một bảo đảm chắc chắn cho sự tồn tại và phát triển của gia đình cũng đang bị những tính toán vật chất lấn át. Xu hướng lấy chồng nước ngoài với lý do chính nhằm vào lợi ích vật chất đang gia tăng, khiến nhiều phụ nữ trở nên bất hạnh.

Chuyển sang nền kinh tế thị trường, là con đường tất yếu của kinh tế nước ta, cũng như của mọi quốc gia trong thời đại ngày nay. Sự xuất hiện của kinh tế thị trường như cơ sở kinh tế của xã hội, tất yếu sẽ tác động và chi phối kiến trúc thượng tầng, trong đó có đạo đức xã hội.

Nhưng kinh tế thị trường với bản chất là nền kinh tế sản xuất hàng hóa, một nền kinh tế quan tâm rất nhiều đến lợi nhuận và lợi ích cá nhân,... nên nó là cơ sở để hình thành những phẩm chất mới về mặt đạo đức con người; đồng thời cũng là cơ sở để nuôi dưỡng, hoặc làm phát sinh những phản giá trị về mặt đạo đức. Kinh nghiệm lịch sử chỉ ra rằng, ở bất cứ quốc gia nào đang vận hành nền kinh tế thị trường, thì ở đó tâm lý ỷ lại, thụ động của người lao động đều bị đẩy lùi, thay vào đó là ý thức tìm tòi, vươn lên, dám chịu trách nhiệm với bản thân mình. Đó là mặt mạnh chung của kinh tế thị trường. Về phương diện này, qua gần 30 năm chuyển đổi nền kinh tế, đời sống tinh thần của các tầng lớp nhân dân ta đã trở nên năng động, sáng tạo, khắc phục được tính ỷ lại, thụ động, vốn là sản phẩm của nền kinh tế quan liêu, bao cấp. Ở những quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ cao, vai trò của các thương hiệu hàng hóa cực kỳ quan trọng. Xây dựng được thương hiệu là xây dựng được lòng tin giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Đó là một biểu hiện văn minh của đạo đức trên lĩnh vực kinh tế. Đối với các quốc gia vốn xuất phát từ nền kinh tế kém phát triển, lại chưa hiểu biết nhiều về kinh tế thị trường và quản lý xã hội còn yếu kém, thì khi mới chuyển sang kinh tế thị trường, thường trải qua một giai đoạn có sự đảo lộn và rối loạn về các chuẩn mực đạo đức xã hội. Nguyên nhân là, trong khi cả xã hội chưa kịp nhận ra khía cạnh tích cực của kinh tế thị trường, thì đã bị xô đẩy bởi những mặt tiêu cực vốn có của nó. Những mặt tiêu cực này lại đáp ứng nhu cầu khỏa lấp những thiếu thốn vật chất mà cả xã hội đang phải chịu đựng. Cơ chế kinh tế thị trường cộng với sự lỏng lẻo trong công tác giáo dục tư tưởng đạo đức, sự yếu kém trong quản lý xã hội, chính là miếng đất thuận lợi để những nhu cầu ham muốn tầm thường, thấp kém xuất hiện và phát triển.

Vì vậy, việc nhận thức đầy đủ và sâu sắc những biến đổi, biến động trong hệ chuẩn mực đạo đức xã hội ở nước ta thời kinh tế thị trường và đề xuất những giải pháp cần thiết, là rất quan trọng để thúc đẩy sự ổn định và phát triển của đất nước.

Phải thấy rằng hơn 300 năm nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đưa lại sự phồn vinh và tăng trưởng kinh tế vượt bậc. Nhưng đó cũng là thời gian mà nhân loại phải chứng kiến nỗi đau của sự suy thoái về đạo đức trong xã hội tư bản. Lương tâm con người bị xúc phạm. Những quan hệ thiêng liêng giữa con người bị rạn nứt. Để tồn tại và phát triển, nhân loại đang phải tiếp tục tìm con đường đi tới. Chủ nghĩa tư bản cũng đang tự điều chỉnh để có thể kéo dài thêm sự tồn tại của nó. Đã xuất hiện những tín hiệu đáng mừng, dù còn khá mỏng manh. Tổ chức UNESCO của Liên hợp quốc đã ra tuyên bố khẳng định vai trò to lớn của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Các chương trình, dự án quốc tế về hỗ trợ các nước nghèo đã ra đời. Từ thực tế cuộc sống của mình, một bộ phận cư dân giàu có và trung lưu ở các nước tư bản phát triển đã cảm nhận được hạnh phúc con người không phải đến từ các giá trị vật chất, mà chủ yếu từ các giá trị tinh thần. Đây là điều rất quan trọng làm xuất hiện ở Pháp gần đây phong trào từ bỏ dần xã hội tiêu dùng vật chất (société de consommation) để bước sang xã hội đi tìm ý nghĩa (société de sens). Hiện tượng nhiều tỷ phú ở Mỹ đã hưởng ứng lời kêu gọi của tỷ phú Ua-rên Bu-phét, bỏ ra hàng tỷ USD để gây quỹ từ thiện, cứu giúp những người nghèo khổ trên thế giới, cũng là hiện tượng đáng lưu ý ở thời đại chúng ta. Những hiện tượng đó ở các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đem lại cho chúng ta một thông điệp rằng, lương tâm và đạo lý con người vẫn còn, vẫn đang ẩn sâu trong trái tim của nhiều người. Những điểm sáng về văn hóa và đạo đức đó đã giúp chúng ta tin tưởng và khẳng định rằng, nếu biết xây dựng và quản lý tốt nền kinh tế thị trường, biết coi kinh tế thị trường như một phương thức hoạt động kinh tế nhằm giải phóng, phát triển và hoàn thiện con người, thì chắc chắn sự phát triển kinh tế sẽ song hành với sự phát triển xã hội, phát triển con người./.

-----------------------------

(1), (2) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 169, 168, 173

(3) Báo ảnh Việt Nam - số ra ngày 22-7-1972

(4) Xem: GS, TS. Trần Văn Bính (chủ biên): Những tác động của xu thế toàn cầu hóa đối với việc xây dựng và phát triển văn hóa ở Thủ đô Hà Nội, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 130 
Trần Văn BínhGS, TS, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người
23:25' 21/1/2014
TCCSĐT - Hồ Chí Minh - Lãnh tụ kính yêu của nhân dân Việt nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi và phong phú, hết lòng vì nước, vì dân của mình, Người đã để lại cho chúng ta một di sản hết sức quý báu. Đó là tư tưởng của Người.


Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và của dân tộc ta, là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt nam trong suốt hơn tám thập kỷ qua và hiện nay đang tiếp tục soi đường cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi trong sự nghiệp đổi mới. Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về quyền con người có nội dung rất phong phú, rất cụ thể và sâu sắc. Có thể khẳng định, ở nước ta Hồ Chí Minh là người đầu tiên đề cập tới khái niệm nhân quyền và là người đã đặt nền móng lý luận và thực tiễn bằng việc khẳng định quyền con người gắn liền với quyền dân tộc, với độc lập chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Người đã chỉ ra rằng, quyền con người chỉ có thể có được thông qua con đường đấu tranh cách mạng chống áp bức, bóc lột của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ có như vậy thì các quyền cá nhân và quyền dân tộc mới được bảo đảm bền vững.

Trên con đường gian nan Người tìm ra chân lý


Quyền con người là một trong những vấn đề có lịch sử lâu đời về cả phương diện thực tiễn cũng như lý luận. Đó luôn là mối quan tâm của nhân loại. Mỗi thời kỳ phát triển của quyền con người đều gắn liền với thành quả của cuộc đấu tranh giai cấp, các cuộc cách mạng - xã hội. Điều đó, phản ảnh quá trình nhân loại tự giải phóng mình, do vậy vấn đề này bao giờ cũng là điểm nóng của cuộc đấu tranh giai cấp, đặc biệt trên lĩnh vực đấu tranh tư tưởng.

Song, do những giới hạn lịch sử khách quan, các giai cấp thống trị ở mỗi thời kỳ chỉ có thể đáp ứng và bảo đảm quyền con người ở một mức độ, một nấc thang nhất định. Sự phát triển của lịch sử đã cho thấy sức mạnh vô địch của nhu cầu về quyền và tự do của con người. Quyền con người có nội dung rất phong phú, có tính chất nhạy cảm, phức tạp và càng phức tạp hơn khi nó gắn với các chế độ chính trị khác nhau, bởi vậy thường có những quan điểm khác nhau thậm chí đối lập nhau, do cách tiếp cận khác nhau.

Hồ Chí Minh tiếp cận với quyền con người hoàn toàn khác với các luận điểm của cá học giả ở phương Tây. Xuất phát từ thực tiễn và truyền thống của dân tộc Việt Nam đã thôi thúc Người đi tìm chân lý. Người đã kế thừa những nội dung hợp lý của tư tưởng nhân quyền trước đó, để đưa ra những luận điểm mới mẻ sâu sắc và toàn diện về quyền con người, phù hợp đặc điểm của thời đại mới và tình hình cụ thể ở Việt Nam. Từ đặc điểm của dân tộc đang bị mất nước, bị bóc lột nặng nề dưới chế độ đế quốc thực dân và bọn địa chủ phong kiến tay sai, mọi quyền sống của con người cũng như quyền dân tộc đều không có. Vì vậy, để giải quyết vấn đề nhân quyền hay còn gọi là quyền con người ở Việt Nam chỉ có thể được giải quyết thông qua cuộc cách mạng để giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam. Đó là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến tay sai, chỗ dựa cho bộ máy thống trị và bóc lột của chủ nghĩa thực dân Pháp. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp xâm lược là mâu thuẫn chủ yếu. Vì vậy, nhiệm vụ chống thực dân Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống địa chủ phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc phải gắn chặt với đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ. Đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt ra, cần được giải quyết, có giải quyết được yêu cầu này thì quyền con người mới được bảo đảm.

Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người bắt nguồn sâu xa từ lịch sử dân tộc và thực tiễn của đất nước, kế thừa có chọn lọc những tư tưởng nhân quyền tiến bộ của các nước phương Đông cũng như các nước phương Tây. Đặc biệt là vận dụng có sáng tạo tư tưởng giải phóng con người và xã hội của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Đây là đặc điểm nổi bật trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhân quyền.

Kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình, quê hương, đất nước, ngay từ nhỏ Người đã có hoài bão lớn gắn trách nhiệm của mình với vận mệnh của đất nước “Khi tôi 13 tuổi, tôi đã từng lần đầu tiên nghe nói về tự do, bình đẳng và bác ái... Tôi muốn tự mình làm quen với văn hóa Pháp, để tìm hiểu điều gì ẩn sau những khái niệm này” để về giúp đồng bào mình. Đây là một trong những động lực đầu tiên thúc đẩy Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Người đã thâm nhập trực tiếp vào các nước phương Tây để kiểm nghiệm giá trị “tự do, bình đẳng, bác ái”, tìm hiểu ngọn nguồn, bản chất của chế độ thực dân đế quốc và cũng là để học hỏi tinh hoa thế giới để về giúp đồng bào. Đó là một đột phá mới trong tư duy chính trị lúc bấy giờ.

Với ý chí kiên cường, trải qua biết bao thử thách của thực tiễn cuộc sống, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã củng cố vững chắc lý tưởng độc lập, tự do của mình. Trong những năm tìm đường cứu nước, Người đã dành nhiều thời gian để khảo sát thực tế, tìm hiểu “tự do, bình đẳng, bác ái” được thực thi các nước “mẫu quốc” tại các thuộc địa như thế nào. Người đã đi vào sào huyệt của chủ nghĩa thực dân để xem cái “hào nhoáng” của những nền “văn minh với sứ mệnh khai hóa”. Người đã dày công nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản và các nhà tư tưởng tiến bộ khác đồng thời đã tìm thấy ở Tuyên ngôn Nhân quyền, Dân quyền của cách mạng Pháp (1789) và Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776) những “quyền bất khả xâm phạm” của con người. Đây chính là cơ sở quan trọng để Hồ Chí Minh khẳng định chân lý, dân tộc Việt Nam cũng phải được hưởng những “quyền bất khả xâm phạm” đó. Năm 1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, Người gửi “Bản yêu sách của dân tộc Việt Nam gửi đến Hội nghị Véc-xay (Versailles, Pháp). “Bản yêu sách” gồm 8 điểm rất ôn hòa, yêu cầu Chính phủ Pháp trao trả một số quyền tự do, dân chủ cơ bản tối thiểu và cơ bản cho nhân dân Việt Nam, cũng như các dân tộc ở Đông Dương… Nhưng tất cả những yêu sách ôn hòa đó của Nguyễn Ái Quốc đều không được Chính phủ Pháp, cũng như các nước tham gia Hội nghị Versailles quan tâm. Thực tế đó, giúp Người ngày càng nhận rõ bản chất của chủ nghĩa đế quốc và rút ra kết luận quan trọng rằng: muốn được giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân mình và phải thông qua cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ. Đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là tiền đề, là điều kiện giành lấy và thực hiện quyền của con người. Đây là một vấn đề mới về lý luận và chính trị trong thời đại ngày nay.

Nét đặc sắc trong tư tưởng của Người về nhân quyền

Xuất phát từ thực tiễn và truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, tiếp thu và kế thừa những nội dung hợp lý của tư tưởng tiến bộ về nhân quyền, tư tưởng của  Hồ Chí Minh không hề xa lạ và không đoạn tuyệt với những thành tựu văn minh tiến bộ của nhân loại, nhưng có sự vận dụng, phát triển sáng tạo của các tư tưởng đó. Người đã đưa ra những luận điểm mới mẻ, sâu sắc và toàn diện về quyền con người, đây là đặc điểm quan trọng và nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người. Điều đó, được thể hiện trong các nội dung sau:

Một là, trong tư tưởng về nhân quyền ở nhiều nước phương Tây nêu ra, chủ yếu và cốt lõi của nó là đòi quyền tự do cho mỗi cá nhân. Điều này đúng nhưng chưa đủ trong thời kỳ phát triển mới. Bởi vì, thời kỳ này chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc xâm chiếm các thuộc địa, đặt ách thống trị bóc lột tàn bạo cho các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Vì vậy, quyền của mỗi người gắn chặt và không tách rời với quyền của dân tộc, do đó Hồ Chí Minh đã đấu tranh đòi nhân quyền cho cả dân tộc, quyền tự quyết, quyền bình đẳng dân tộc. Không dừng lại ở đó, Người đã đòi quyền cho tất cả các dân tộc đang bị áp bức bóc lột trên thế giới. Đây là sự phát triển, khái quát cao đem lại những nội dung mới về nhân quyền - quyền con người trong tư tưởng của Hồ Chí Minh thời đại mới. Điều này đã được thể hiện rõ trong Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam do Người trực tiếp soạn thảo và công bố ngày 02-9-1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, Hồ Chí Minh khẳng định, một chân lý lớn của thời đại mới trong thế kỷ XX đó là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Đây là sự phát triển mới của Hồ Chí Minh và chính Người thừa nhận, suy rộng ra từ câu mở đầu bất hủ của Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc”. Từ sự khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng… có quyền được sống, quyền được tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc” , để đi đến khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Như vậy, từ những quyền cơ bản của con người được mở rộng thành quyền dân tộc, quyền con người trừu tượng thành quyền của người dân được sống trong độc lập, tự do, từ quyền dân tộc độc lập, được phát triển thành quyền độc lập của các dân tộc. Dựa trên cơ sở pháp lý về quyền “tự nhiên” đến chỗ khẳng định quyền đấu tranh “chống áp bức” của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc.

Hai là, Hồ Chí Minh không chỉ kế thừa những giá trị phổ biến về nhân quyền trong lịch sử mà còn nâng những giá trị đó lên một tầm cao mới. Ở đây, Người không chỉ đấu tranh đòi quyền cho con người, mà Người còn nhấn mạnh tới quyền làm người. Bởi vì, quyền con người không chỉ cần ăn, mặc, ở, đi lại để tồn tại mà còn vươn lên trên cái tồn tại để hoàn thiện và phát triển bản thân. Đó chính là quyền học tập, sáng tạo, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền tự do, quyền dân sự, quyền về chính trị, kinh tế - văn hóa xã hội, cũng như quyền của các nhóm người đặc biệt trong xã hội như: quyền các dân tộc thiểu số, quyền phụ nữ, quyền của trẻ em, quyền của nhóm người có hoàn cảnh đặc biệt, khó khăn cần được xã hội quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ để họ hòa nhập với cộng đồng xã hội… Như vậy, có thể thấy nội dung quyền con người trong tư tưởng của Hồ Chí Minh được phát triển rất phong phú cả về bề rộng và chiều sâu, tạo ra một hệ thống về quyền con người theo quan điểm khoa học và cách mạng.

Ba là, cũng như các nội dung khác trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Người triệt để thực hiện giữa nói và làm, trở thành một nguyên tắc trong hành động của Hồ Chí Minh. Và chính Người đã nêu một tấm gương mẫu mực trong việc thực hiện triệt để nhất những tư tưởng đó còn hơn rất nhiều lần so với những điều Người nói và viết. Sự thống nhất giữa tư tưởng và hành vi, giữa lý luận và thực tiễn, giữa động cơ và hiệu quả đã trở thành đặc trưng nổi bật của Hồ Chí Minh so các nhà tư tưởng, các lãnh tụ khác. Người là tấm gương sáng, một pho sách trọn vẹn về nhân quyền và cuộc đấu tranh cho quyền con người. Người nói : “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao nước ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có căm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Hồ Chí Minh khẳng định: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo là vì mục đích đó”. Điều đó cho thấy, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề con người và giải phóng con người, coi đó là mục đích cao nhất cần đạt tới trong mọi hoạt động cách mạng của mình. Người là một nhân vật hiếm có trong lịch sử nhân loại, một lãnh tụ lấy mong muốn của dân tộc làm ham muốn của mình, lấy nỗi lo của nhân dân làm động cơ, mục đích hoạt động thực tiễn.

Trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đã dồn hết tâm lực, trí tuệ để lãnh đạo nhân dân giành độc lập cho dân tộc, giành quyền làm chủ của con người, xây dựng, phát triển đất nước mang lại hạnh phúc và quyền làm người cho nhân dân, làm cho Việt Nam trở nên giàu mạnh, hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu.. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu của nước ta là: “1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có học hành”. Người luôn tâm niệm, Nhà nước được độc lập mà dân không được hưởng tự do, dân vẫn cứ chết đói, chết rét thì độc lập ấy chẳng có ý nghĩa gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên không bao giờ được quên “dân là chủ” với quan niệm trên, trong chế độ mới, giá trị cao nhất của độc lập dân tộc là đem lại quyền làm chủ thực sự cho người dân, phải trao lại cho dân mọi quyền hành. Dân là chủ, nghĩa là trong xã hội nhân dân là người chủ của nước, nước là nước của nhân dân. Các cơ quan Đảng và Nhà nước là tổ chức được dân ủy thác làm công bộc phục vụ cho nhân dân. Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân, cán bộ, đảng viên là đầy tớ của dân. Đầy tớ là công bộc của dân, vì lợi ích chung mà gánh vác việc dân, phải trung thành và tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân. Họ phải như những người lính vâng mệnh quốc dân mà thi hành nhiệm vụ, thay mặt dân để ra quyết định, phải toàn tâm, toàn ý phục vụ đất nước phục vụ nhân dân. Người nhấn mạnh: Đảng không có mục tiêu nào khác là đem lại lợi ích cho dân.

Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rất rõ giá trị của quyền con người và quyền làm người. Vì vậy, ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, ngày 03-9-1945 trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người chỉ ra 6 nhiệm vụ cấp bách trong đó có nhiệm vụ ban hành hiến pháp để bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân và đề nghị tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái đủ 18 tuổi trở lên đều được quyền ứng cử và bầu cử theo luật định không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo và giống nòi.

Hồ Chí Minh đã xem việc tổng tuyển cử, xây dựng Hiến pháp là một trong sáu nhiệm vụ cấp bách. Điểm cốt lõi trong quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh là xác định mối quan hệ giữa nhân dân với toàn bộ các cơ quan thuộc hệ thống chính trị, bao gồm Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể, trong đó nhân dân lao động là người làm chủ xã hội.

Quán triệt tư tưởng đó, bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta do Người trực tiếp làm trưởng ban soạn thảo đã được Quốc hội thông qua ngày 09-11-1946. Ngay trong lời nói đầu đã xác định: “bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân” là một trong những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp. Trong bản Hiến pháp năm 1946 đã giành cả chương II nói về “quyền lợi và nghĩa vụ công dân” gồm 18 điều cụ thể quy định các quyền dân sự, chính trị cũng như các quyền về kinh tế, văn hóa và xã hội… Theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng hệ thống quyền con người (nhân quyền) ở nước ta ngày càng mở rộng và được quán triệt ngày càng đầy đủ trong các bản Hiến pháp sửa đổi vào các năm 1959, 1982, 1992 và năm 2013 vừa qua cũng như trong đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước. Cả cuộc đời của Người là mẫu mực cho việc phục vụ nhân dân, trong Di chúc, Người viết: VỀ VIỆC RIÊNG - Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Và điều mong muốn cuối cùng của Người là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới.

Như vậy, có thể thấy rằng, Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến vấn đề nhân quyền với một nội dung rất rộng lớn, toàn diện và sâu sắc. Tư tưởng nhân quyền của Người quán triệt trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội; nhất là trên lĩnh vực xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ngày nay, Đảng ta và Nhà nước ta đang tiếp tục phát huy tư tưởng nhân quyền của Người trong quá trình đổi mới. Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định: Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân. Thêm vào đó, tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc ngày 12-11-2013, đã bầu ra 14 thành viên mới bổ sung vào Hội đồng Nhân quyền. Việt Nam đã trúng cử với số phiếu cao nhất so với 13 nước còn lại, đạt 184/192 phiếu thuận. Việc đông đảo các quốc gia thành viên Liên hợp quốc tín nhiệm bầu Việt Nam làm thành viên Hội đồng Nhân quyền có ý nghĩa lớn về nhiều mặt. Trước hết, điều này thể hiện sự ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với chính sách, nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó có việc xây dựng nhà nước pháp quyền, phát huy dân chủ và bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền của nhân dân./.
TS. Vũ Ngọc Am
Thực hiện công bằng, tiến bộ văn hóa trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
22:11' 17/1/2014
TCCSĐT - Công bằng, tiến bộ là những thuộc tính cơ bản của nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà Việt Nam đang xây dựng. Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, việc thực hiện công bằng, tiến bộ trong văn hóa có những đặc điểm mới cần phải được xem xét, để có những giải pháp thực tế, nhằm thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa.

Công bằng, tiến bộ trong văn hóa
Thực hiện công bằng, tiến bộ trong văn hóa được tiến hành trong từng bước và trong suốt quá trình đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam, công bằng được xác định là một trong những nguyên tắc và mục tiêu của công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiến bộ được đánh giá bằng hệ thống nguyên tắc đồng thời là hệ mục tiêu của công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN là: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; trong đó công bằng là một sự thể hiện của tiến bộ xã hội.
Theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (năm 1998), công bằng, tiến bộ trong văn hóa được hiểu như sau: Công bằng, tiến bộ là thực hiện việc bồi dưỡng tư tưởng đúng và tình cảm tốt đẹp, nhất là những tư tưởng, tình cảm lớn, có ý nghĩa chi phối đời sống tinh thần của mỗi người và của cả dân tộc. Tư tưởng đúng và tình cảm tốt đẹp có ý nghĩa lớn, theo Hồ Chí Minh, là ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự do; có tinh thần vì nước, vì lợi ích chung(1). Tư tưởng, tình cảm đó được thể hiện ở 5 đức tính của con người Việt Nam là: có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội...; có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung; có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh...; lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp; thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn và thể lực.
Công bằng, tiến bộ trong văn hóa cơ bản được thể hiện ở sự công bằng, tiến bộ của dân trí gồm học vấn, nghề nghiệp, năng lực thực hành trí lực, năng lực cảm thụ cái đẹp và ứng xử văn hóa. Ngoài ra, môi trường văn hóa, đời sống văn học - nghệ thuật, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc, đời sống tín ngưỡng - tôn giáo, giao lưu văn hóa trong và ngoài nước, thể chế văn hóa - theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII - cũng là những phương diện cần được xem xét, đánh giá của công bằng, tiến bộ trong văn hóa.
Những tiêu chí đánh giá sự công bằng, tiến bộ trong từng phương diện này dĩ nhiên còn nhiều tranh luận, song về cơ bản, có thể đưa ra một số tiêu chí phác họa trên cơ sở các giá trị chuẩn là chân, thiện, mỹ.
Thứ nhất, trong môi trường văn hóa, thước đo sự công bằng, tiến bộ là: xanh, sạch, đẹp; trong đó tiêu chí “xanh” được hiểu dưới hàm nghĩa “tính tự nhiên”, tức là nhân văn, thân thiện hoặc thống nhất với tự nhiên; tiêu chí “sạch” được hiểu dưới hàm nghĩa an sinh văn hóa. Trong môi trường văn hóa, công bằng, tiến bộ còn được thể hiện ở mối quan hệ hài hòa giữa văn hóa người giàu và người nghèo, văn hóa nông thôn và đô thị,...
Thứ hai, công bằng, tiến bộ trong đời sống văn học - nghệ thuật là phát triển đa dạng các loại hình, tác phẩm văn học - nghệ thuật với giá trị tư tưởng, nghệ thuật cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng sâu sắc đối với quá trình phát triển con người và xã hội. Công bằng, tiến bộ trong bảo tồn, phát huy di sản văn hóa vật thể, phi vật thể của các dân tộc (bác học và dân gian, đặc biệt của các dân tộc thiểu số) được thể hiện ở việc bảo tồn, phát triển ngôn ngữ, chữ viết, phong tục tập quán về ăn, ở, mặc, ứng xử văn hóa trong sinh hoạt đời thường, nhất là trong lễ, tết, hiếu hỷ; là sự bình đẳng giữa các nền văn hóa dân tộc đa số và thiểu số trong bảo tồn, phát triển các giá trị văn hóa của mỗi dân tộc.
Công bằng, tiến bộ trong đời sống tín ngưỡng - tôn giáo là bảo đảm sự tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật; là khuyến khích thực hành tư tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện trong tôn giáo, đồng thời khắc phục tệ mê tín dị đoan, lợi dụng tín ngưỡng - tôn giáo, nhằm vụ lợi hoặc nhằm thực hiện ý đồ chống phá chế độ chính trị.
Công bằng, tiến bộ trong giao lưu văn hóa là tạo lập được việc tiếp biến một cách bình đẳng tinh hoa văn hóa trong và ngoài cộng đồng dân tộc Việt Nam trên nền tảng truyền thống văn hóa nội sinh; là hình thành được mối quan hệ hài hòa giữa văn hóa với văn minh.
Cuối cùng, công bằng, tiến bộ trong thể chế văn hóa là thúc đẩy mạnh mẽ xã hội hóa văn hóa trên cơ sở quản lý có hiệu quả của Nhà nước, nhằm phát triển các hình thức sáng tạo và tham gia hoạt động văn hóa của các cộng đồng, cá nhân trong khuôn khổ luật pháp. Trước mắt là tạo được sự tiến bộ thực tế trong việc xây dựng, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật và nâng cao được chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa nhà nước. Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự phát triển của các thiết chế và thể chế văn hóa dân lập tự quản (đội chèo, tuồng, rối nước; câu lạc bộ văn hóa, văn nghệ; thư viện, bảo tàng tư nhân...).
Tiến bộ trong văn hóa là đạt được sự phát triển về chất trong việc xác lập, phổ biến các chuẩn mực văn hóa trong xã hội; là nâng cao năng lực làm việc, làm người, làm đảng viên, làm cán bộ trên cơ sở “thực nghề”. Công bằng trong văn hóa là sự phát triển về chất điều kiện và mức độ bình đẳng trong việc bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ văn hóa nói riêng, phát triển các hoạt động sáng tạo, thụ hưởng thành quả văn hóa, tương xứng với sự phát triển kinh tế và xã hội cũng như nhu cầu văn hóa của con người và cộng đồng trong thế giới đương đại.
Thực hiện công bằng, tiến bộ trong văn hóa hiện nay
Một số kết quả
Kết quả về thực hiện tiến bộ trong bồi dưỡng tư tưởng đúng, tình cảm tốt đẹp là đã hình thành một cách phổ biến lý tưởng, niềm tin vào đổi mới trong môi trường đời thường và nhân văn. Ngày nay tư tưởng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội không chỉ được thể hiện ở việc lựa chọn các giá trị văn hóa chung, như hòa bình, dân chủ, công bằng..., mà còn cả ở việc lựa chọn những giá trị đời thường và nhân văn, như tạo việc làm cho bản thân, gia đình, xã hội; thật thà, giữ chữ tín; sử dụng đồng tiền có ích cho bản thân, gia đình và xã hội; sống tình nghĩa, từ thiện, giúp đỡ người có công với nước, với người khuyết tật, người già,...; tham gia phong trào “màu áo xanh tình nguyện”; tình nguyện công tác ở biên giới, hải đảo;...
Kết quả về công bằng trong bồi dưỡng tư tưởng đúng, tình cảm tốt đẹp là trên cơ sở dân chủ hóa các quan hệ với Nhà nước, hệ thống chính trị, và trên cơ sở xã hội hóa các lĩnh vực khác nhau của đời sống văn hóa - xã hội, đã tạo được sự bình đẳng trong việc biểu đạt công khai tư tưởng, tình cảm của mỗi người, mỗi cộng đồng. Thông qua sự phát triển các phương tiện thông tin đại chúng, người dân có thể đóng góp, phản biện đường lối, chủ trương, chính sách, luật pháp của Đảng, Nhà nước. Xã hội hóa văn hóa đang tạo ra nhiều hơn cơ hội bình đẳng cho nhiều người dân trong việc tiếp cận các dịch vụ văn hóa. Các phương tiện thông tin đại chúng cũng hỗ trợ rất có hiệu quả. Nhờ thế việc bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm tốt đẹp có “sân chơi” và môi trường công bằng hơn đối với các thành viên xã hội.
Kết quả về thực hiện công bằng, tiến bộ trong môi trường văn hóa là cơ bản hướng đến môi trường có tính người (tính nhân văn) và ngày càng khoan dung, tức là chấp nhận có sự khác biệt văn hóa. Đổi mới, mà cụ thể là kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN với các quá trình dân chủ hóa, xã hội hóa đã lôi cuốn đa số thành viên xã hội tích cực tham gia vào các hoạt động văn hóa - xã hội và ở đâu cũng nêu gương những người làm ăn giỏi, khuyến khích làm giàu và hỗ trợ người yếu thế trong xã hội. Thực tế đó phù hợp với tâm lý tự nhiên của con người và tạo nên bầu không khí phấn khởi trong toàn xã hội. Đây là một bằng chứng về sự tiến bộ của môi trường văn hóa. Trên cơ sở đó cũng mở ra nhiều cơ hội ngang nhau cho nhiều người tham gia kiến thiết môi trường văn hóa. Thành tựu về công bằng trong môi trường văn hóa là nhìn chung đã giữ được mối quan hệ tương đối đồng thuận giữa người giàu và người nghèo, giữa người dân tộc thiểu số và đa số,... trong quá trình tham gia vào cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, nhất là gia đình văn hóa.
Kết quả về thực hiện công bằng, tiến bộ trong đời sống văn học - nghệ thuật là phát triển đồng thời cả văn học - nghệ thuật hàn lâm (bác học), đại chúng và dân gian trên cơ sở kế thừa, phát huy di sản văn học nghệ thuật các dân tộc Việt Nam. Sự phát triển đa dạng các loại hình văn học - nghệ thuật trên cả ba phương diện ấy là thể hiện cho sự tiến bộ đã đạt được. Trình độ dân trí dần được nâng cao trong điều kiện dân chủ hóa, xã hội hóa đã thúc đẩy sự tiến bộ trong việc thẩm định tác phẩm, hướng dẫn dư luận xã hội, nhằm bảo đảm tự do sáng tác gắn liền với việc nêu cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của văn nghệ sĩ, các nhà văn hóa và của giới nghiên cứu, lý luận phê bình văn học nghệ thuật. Kết quả là văn học - nghệ thuật đã cơ bản phản ánh và phần nào dự báo được tính tích cực của đổi mới, tính nhân văn trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Tính nhân văn, tính dân chủ là đường nét chủ đạo của đời sống văn học - nghệ thuật thời kỳ đổi mới.
Kết quả thực hiện công bằng, tiến bộ trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc là đã chú ý bảo tồn, phát triển văn hóa các vùng hay sắc thái văn hóa địa phương: Hà Nội, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh, miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Tây Nam Bộ. Đồng thời đặc biệt coi trọng việc thực hiện công bằng, tiến bộ trong việc bảo tồn văn hóa các dân tộc.
Kết quả thực hiện công bằng, tiến bộ trong đời sống tín ngưỡng - tôn giáo, cơ bản là thực hiện được tự do tín ngưỡng - tôn giáo và tự do không theo tín ngưỡng - tôn giáo, nhằm xây dựng đời sống tín ngưỡng - tôn giáo lành mạnh bên cạnh một môi trường không tín ngưỡng - tôn giáo lành mạnh. Mối quan hệ hài hòa này được xác lập đã và sẽ bảo đảm thực hiện được công bằng và do đó là tiến bộ cho không chỉ đời sống tín ngưỡng - tôn giáo. Biểu hiện rõ nhất là nhiều công trình tín ngưỡng - tôn giáo được trùng tu, được xây mới; sinh hoạt tín ngưỡng - tôn giáo tự do và phong phú.
Kết quả thực hiện công bằng, tiến bộ trong giao lưu văn hóa thể hiện ở việc xác lập phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ hợp tác quốc tế; ở mục tiêu “làm bạn với tất cả các nước”; ở cách thức ngoại giao nhân dân, tức là cùng với các thiết chế nhà nước, các thiết chế của các tầng lớp nhân dân cũng được thực hiện giao lưu văn hóa trong và ngoài nước một cách bình đẳng. Nội dung giao lưu văn hóa cũng đạt được sự tiến bộ, từng bước được điều chỉnh theo hướng phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
Kết quả thực hiện công bằng, tiến bộ trong thiết chế văn hóa thể hiện ở sự phát triển các thiết chế văn hóa dân lập tự quản trên cơ sở kiện toàn thiết chế văn hóa nhà nước. Công bằng trong việc xây dựng, phát triển các thiết chế văn hóa đã thúc đẩy sự tiến bộ trong cách thức hoạt động, không chỉ của các thiết chế dân lập tự quản, mà của cả thiết chế văn hóa của Nhà nước. Tiến bộ này thể hiện ở việc thường xuyên kiện toàn tổ chức bộ máy và hoàn thiện đường lối, chủ trương, luật pháp, chính sách, kể cả các quy chế, quy ước văn hóa ở cơ sở.
Một số hạn chế
Hạn chế trong việc thực hiện công bằng, tiến bộ trong bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm là sự phát triển lấn lướt theo hướng thoái bộ (phi tiến bộ, phản tiến bộ) về tư tưởng, đạo đức, lối sống của không ít người dân.
Hạn chế về thực hiện công bằng, tiến bộ trong môi trường văn hóa là hệ quả trực tiếp của sự thoái bộ về tư tưởng, đạo đức, lối sống và là hệ quả gián tiếp của sự xuống cấp môi trường thiên nhiên, kinh tế - xã hội. “Văn hóa đen”, “văn hóa ngoài luồng” vẫn đang làm vẩn đục môi trường văn hóa. Việc du nhập một số thú tiêu khiển hiện đại đang thực sự gây ra những tác động tiêu cực đối với môi trường văn hóa. Sự phân hóa trong việc tiếp cận các dịch vụ văn hóa do sự phân hóa giàu nghèo, trình độ dân trí, đang gây khó khăn rất lớn cho việc thực hiện công bằng trong xây dựng môi trường văn hóa.
Hạn chế trong việc thực hiện công bằng, tiến bộ trong đời sống văn học - nghệ thuật là sự phát triển hầu như không kiểm soát được của văn học, nghệ thuật đại chúng, nhất là những đề tài kích thích bạo lực và các bản năng thấp hèn. Văn học, nghệ thuật đại chúng có chức năng tích cực là phổ cập hóa giá trị văn hóa nhưng mặt tiêu cực của nó là gắn với “cơ chế đồng tiền” và là chất “ma túy xã hội” cầm tù con người trong lạc thú tiêu khiển những sản phẩm văn học, nghệ thuật rẻ tiền, kích thích bạo lực và bản năng thấp hèn của con người(2).
Hạn chế trong việc thực hiện công bằng, tiến bộ trong việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc là chưa có những cách làm đúng đối với việc bảo tồn, kế thừa nhiều di sản văn hóa vật thể, phi vật thể; có khuynh hướng hiện đại hóa, “hoành tráng hóa”, ví dụ tổ chức lễ hội tràn lan, xây dựng đình, chùa, nhà thờ,... Ngôn ngữ của nhiều dân tộc thiểu số vẫn bị mai một. Cảnh quan văn hóa - lãnh thổ tộc người bị xâm hại, biến dạng, nhất là ở vùng phát triển công nghiệp, đô thị hóa. Còn tại vùng sâu, vùng xa, các nguồn lực để bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc rất hạn chế. Di sản văn hóa của các dân tộc có số dân dưới 1.000 người có nguy cơ bị mai một rất cao. Sự công bằng trong phát triển văn hóa của các dân tộc có dân số đông và dân số ít chưa được chú ý thực hiện tốt.
Hạn chế trong thực hiện công bằng, tiến bộ trong đời sống tín ngưỡng - tôn giáo là đã xuất hiện những tà đạo và việc lợi dụng tín ngưỡng - tôn giáo cho mục đích thực dụng hoặc mê tín dị đoan.
Hạn chế trong thực hiện công bằng, tiến bộ trong giao lưu văn hóa là chưa chủ động tiếp biến được các giá trị và phương tiện văn hóa ngoại lai hiện đại trên cơ tầng văn hóa dân tộc. Tính lắp ghép, hỗn dung văn hóa ngoại lai là khá phổ biến.
Hạn chế trong việc thực hiện tiến bộ, công bằng trong xây dựng, kiện toàn, phát triển thiết chế văn hóa được bộc lộ rõ ở phát triển tự phát có tính nhất thời (hay tính kỳ cuộc) của nhiều thiết chế văn hóa dân lập tự quản; ở sự chưa hoàn thiện của các thể chế “mềm”, như chủ trương, luật pháp, chính sách, quy chế, quy ước văn hóa.
Nguyên nhân chung của những hạn chế trong thực hiện công bằng, tiến bộ trong văn hóa là bản thân cách nghĩ, cách làm văn hóa chưa phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế. Thực hiện công bằng, tiến bộ trong văn hóa là rất phức tạp. Ví dụ, trong bảo tồn, phát triển di sản văn hóa dân tộc, rất khó tránh được sự lấn lướt của văn hóa dân tộc có số dân đông hoặc có trình độ phát triển cao hơn. Mục tiêu phát triển văn hóa chủ yếu chạy theo tiêu chí số lượng, chưa quan tâm đầy đủ đến chất lượng phát triển văn hóa.
Những vấn đề bức xúc hiện nay khi thực hiện công bằng, tiến bộ trong văn hóa là:
- Trong quản lý nhà nước về văn hóa chưa tìm được cách thức giải quyết mối quan hệ hài hòa giữa mục tiêu số lượng và mục tiêu chất lượng theo hướng từng bước xác lập thể chế quản lý bằng chất lượng. Nhiều mục tiêu văn hóa đặt ra quá cao và xa rời thực tế. Ví dụ, nếu căn cứ vào tiêu chí gia đình văn hóa hiện nay, trong đó các thành viên gia đình phải có việc làm ổn định, hợp pháp và không có người mắc tệ nạn xã hội,... thì tỷ lệ gia đình Việt Nam hội đủ các điều kiện này rất khó đạt trên 80% như mục tiêu đề ra của các địa phương.
- Việc xóa đói giảm nghèo hiện nay mới tập trung vào kinh tế vật chất là chính và đang cố gắng chuyển sang lĩnh vực y tế, giáo dục. Do đó, việc thực hiện công bằng đối với người nghèo, vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa... trong việc tiếp cận các dịch vụ văn hóa vẫn gặp nhiều khó khăn.
Giải pháp tiếp tục thực hiện tiến bộ, công bằng trong văn hóa
Một là, trong tuyên truyền, giáo dục hiện nay cần tích cực bồi dưỡng chuẩn mực (hoặc tiêu chí) đạo đức, nếp ứng xử văn hóa phù hợp với việc làm và địa vị xã hội cũng như thói quen quan tâm đến đời sống văn hóa, trước hết ở những người lãnh đạo, quản lý các cấp; và tiếp tục thực hiện các chính sách đãi ngộ thỏa đáng cho những người làm công tác tư tưởng, văn hóa chuyên nghiệp, thông qua đó sẽ bồi dưỡng cách nghĩ, cách làm văn hóa, giáo dục trên cơ sở nhân cách, phong cách văn hóa.
Hai là, trên cơ sở mức sống của đa số nhân dân đã được cải thiện cần hình thành, phát triển dư luận xã hội quan tâm, tôn vinh nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, tôn vinh học vấn, tay nghề trên cơ sở thực nghề và tích cực tham gia vào các hoạt động văn hóa, giáo dục.
Ngày nay, truyền thống “tôn sư trọng đạo”, thanh lịch,... cần được khai thác, phát huy bằng cách huy động các phương tiện thông tin đại chúng, dư luận xã hội lôi cuốn mọi thành viên xã hội tỏ rõ thái độ, chính kiến và tích cực tham gia hoặc sáng tạo các hoạt động văn hóa, giáo dục. Trên cơ sở đó tạo được nhiều nguồn lực và quan trọng hơn là kiến thiết được môi trường tôn vinh văn hóa; góp phần điều chỉnh quá trình phát triển văn hóa theo hướng tiến bộ, công bằng.
Ba là, quy hoạch, phát triển công nghiệp sản xuất và dịch vụ thông tin, văn hóa với nhiều cấp độ từ hàn lâm đến phổ cập đại chúng; từ bảo tồn, phát huy các di sản văn hóa truyền thống đến các loại hình văn hóa hiện đại; từ chuyên nghiệp đến không chuyên nghiệp hoặc dân gian hiện đại;... Trên cơ sở đó sẽ mở rộng khả năng tiếp cận các dịch vụ thông tin, văn hóa của các tầng lớp xã hội với dân trí, mức sống, tâm lý dân tộc,... khác nhau.
Bốn là, cần tăng cường và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính, pháp lý của Nhà nước đồng thời tạo điều kiện phát triển đa dạng các thiết chế văn hóa dân lập tự quản, để đẩy mạnh xã hội hóa văn hóa. Trong quá trình đẩy mạnh xã hội hóa văn hóa, vai trò của Nhà nước không giảm, trái lại tăng mạnh, nhưng được thực hiện không theo kiểu cơ chế tập trung - bao cấp, mà theo hướng xây dựng và thực hiện các chương trình có mục tiêu với sự tham gia chủ yếu của Nhà nước về luật pháp, tài chính, nhân lực, nhằm tập hợp, huy động nguồn lực của tập thể, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế, các tầng lớp xã hội.
Hành lang pháp luật rộng, thoáng, nghiêm minh với luật pháp, chính sách khuyến khích tập thể, cá nhân, nhất là các “Mạnh thường quân” đầu tư, phát triển văn hóa là điều kiện thiết yếu để thúc đẩy mạnh xã hội hóa văn hóa. Nhưng nguồn lực của Nhà nước, nhất là tài chính, pháp lý, vẫn đóng vai trò chủ đạo đối với quá trình xã hội hóa này. Tăng cường thêm ngân sách đồng thời phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước cũng là yêu cầu rất quan trọng của quá trình xã hội hóa văn hóa.
Tạo điều kiện phát triển đa dạng các thiết chế dân lập tự quản (các hội, các quỹ văn hóa, giáo dục, các tổ, đội văn nghệ; các câu lạc bộ, viện bảo tàng, trường học...) là tiền đề cơ bản, có triển vọng đối với việc đẩy mạnh xã hội hóa văn hóa. Nhà nước, dù thế nào chăng nữa, cũng không thể và không nên tự mình tổ chức tất cả các hoạt động văn hóa, mà chuyển dần cho các tổ chức dân lập tự quản dưới các hình thức cổ phần, tư nhân,... Dĩ nhiên các tổ chức xã hội phải hoạt động trong khuôn khổ pháp luật.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh giao lưu văn hóa với khu vực và thế giới, để tiếp thu những cách nghĩ, cách làm văn hóa tiên tiến; có thêm nguồn lực cũng như bổ sung khả năng đáp ứng nhu cầu về các phương tiện thông tin, văn hóa của nhân dân trên cơ sở sự lựa chọn phù hợp với mục tiêu phát triển của nền văn hóa Việt Nam.
Thông qua hội nhập quốc tế có khả năng tiếp cận, vận dụng các chỉ số phát triển chất lượng của văn hóa, để có thể so sánh với trình độ phát triển văn hóa của các nước trên thế giới. Định vị đúng trình độ thực hiện tiến bộ, công bằng của văn hóa Việt Nam trong khu vực, thế giới là một cơ sở để thực hiện sự nghiệp này tốt đẹp hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa./.
------------------------------------------------
(1) Xem Hồ Chí Minh, Về công tác văn hóa - văn nghệ, Nxb. Sự thật, H. 1977, tr.90.
(2) Nguyễn Thanh Tuấn, Văn hóa ở các nước tư bản phát triển - đặc điểm và dự báo, Viện Văn hóa và Nxb. VHTT, H. 2005, tr.36-38.
ThS. Nguyễn Thị Loan AnhĐại học Văn hóa Hà Nội

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét