PGS - TS Trần Ngọc Vương: Ngụy thiện cũng vừa phải thôi, không thì ai chịu được!
Hồng Thanh Quang (thực hiện)
- Hồng Thanh Quang: Thời gian gần
đây, trong xu hướng cổ xúy cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền, đã lại rộ lên
một số nhận định cho rằng, tư tưởng Pháp gia và đặc biệt bộ sách “Hàn Phi Tử”
của Hàn Phi có vẻ hữu ích cho xã hội hơn những lời răn dạy của Khổng Tử?! Theo
anh thì ta nên đánh giá như thế nào?
- PGS - TS Trần Ngọc Vương: Đúng là có
thể nghĩ như vậy. Nhưng cũng cần phải nói ngay rằng, tư tưởng pháp trị của thời
cổ nó chỉ khắc phục một số phương diện chưa tích cực nhất định của đức trị,
nhân trị, nhưng nó lại đẻ ra thêm một số mặt trái cũng rất nặng nề. Bởi vì tư
tưởng pháp trị mà Hàn Phi là tập đại thành dựa trên hai tiên đề; nó có rất
nhiều điểm ưu việt và tôi phải nói rằng, trong thời cổ đại không có một học
thuyết pháp trị nào tinh vi và kỹ lưỡng như Hàn Phi Tử, không có một nhà tư
tưởng chính trị nào thông minh đến mức quái đản, sắc sảo như Hàn Phi. Nếu có
thể so sánh thì phải thấy rằng, Hàn Phi là ông thầy nhiều tầng của Machiavelli.
Machiavelli chưa là gì cả nếu ta đọc đối chứng.
- Hồng Thanh Quang: Thời gian gần
đây, trong xu hướng cổ xúy cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền, đã lại rộ lên
một số nhận định cho rằng, tư tưởng Pháp gia và đặc biệt bộ sách “Hàn Phi Tử”
của Hàn Phi có vẻ hữu ích cho xã hội hơn những lời răn dạy của Khổng Tử?! Theo
anh thì ta nên đánh giá như thế nào?
- PGS - TS Trần Ngọc Vương: Đúng là có thể nghĩ như vậy. Nhưng cũng
cần phải nói ngay rằng, tư tưởng pháp trị của thời cổ nó chỉ khắc phục một số
phương diện chưa tích cực nhất định của đức trị, nhân trị, nhưng nó lại đẻ ra
thêm một số mặt trái cũng rất nặng nề. Bởi vì tư tưởng pháp trị mà Hàn Phi là
tập đại thành dựa trên hai tiên đề; nó có rất nhiều điểm ưu việt và tôi phải nói
rằng, trong thời cổ đại không có một học thuyết pháp trị nào tinh vi và kỹ
lưỡng như Hàn Phi Tử, không có một nhà tư tưởng chính trị nào thông minh đến
mức quái đản, sắc sảo như Hàn Phi. Nếu có thể so sánh thì phải thấy rằng, Hàn
Phi là ông thầy nhiều tầng của Machiavelli. Machiavelli chưa là gì cả nếu ta
đọc đối chứng.
- Tôi biết nhà triết học chính trị
người Italia, Niccolo Machiavelli, chính là tác giả của luận văn “Il
Principe”, được xuất bản vào đầu thế kỷ XVI. Tôi đã đọc tác phẩm này hồi tôi
còn sinh viên qua bản dịch tiếng Nga. Và tôi thấy quả thực nó được viết với bút
pháp rất đơn giản. Nhưng tôi nghĩ, nhiều ý tưởng của Machiavelli cũng khá sâu
sắc và bổ ích. Có phải ngẫu nhiên đâu khi nó vẫn được đánh giá là một trong
những tác phẩm rất có giá trị về thuật trị quốc, thuật dùng người và trị người
ở châu Âu trong suốt một thời gian dài.
- Đành là thế, nhưng khi tôi đọc
cuốn Il Principe của Machiavelli thì
tôi thấy buồn cười, bởi vì Il Principe
so với Hàn Phi Tử không là cái gì
cả.
- Tôi hiểu. “Hàn Phi Tử” dĩ nhiên
là một tác phẩm vĩ đại vào hàng bậc nhất phương Đông cổ đại. Nhưng văn phong
của ông có nhiều điều gợi nhớ tới Machiavelli. Tôi nghĩ, khi nhà nghiên cứu
Phan Ngọc trong phần chú thích cho bài “Thân Bất Hại, Hàn Phi liệt truyện”
trong tập “Sử ký” của Tư Mã Thiên đã nhận xét rằng, văn của Hàn Phi chặt chẽ,
khúc chiết, phân tích tỉ mỉ, khiến người đọc có cảm giác như đang tiếp xúc với
tác phẩm của một luật gia La Mã, thì có lẽ ông đã nghĩ tới Machiavelli.
- Có lẽ đúng là như vậy.
- Anh biết không, thời trẻ, khi đọc
“Il Principe”, tôi đã rất suy nghĩ về những gì mà Machiavelli viết về điều gì
tốt hơn đối với các bậc quân vương, những người cầm quyền: gieo tình yêu hay
làm cho sợ hãi. Tôi nhớ là Machiavelli đã cảnh báo các quân vương rằng, dù người
cầm quyền nào cũng mong muốn được tiếng là tốt bụng nhưng cũng nên cảnh giác
với sự lạm dụng lòng nhân. Machiavelli đã dẫn ra trường hợp của Đức Hồng y
Cesare Borgia, một danh tướng thời Phục hưng, người bị coi là kẻ tàn nhẫn
nhưng bằng sự tàn nhẫn của mình đã thiết lập lại được trật tự ở Romagna, thống
nhất khu vực này. Machiavelli cho rằng, sự tàn nhẫn của Borgia trong trường hợp
này hữu lợi hơn so với sự tử tế tốt bụng của người dân Florence, chỉ vì sợ mang
tiếng tàn bạo mà để cho Pistoia bị phá hủy… Liệu ở trong “Hàn Phi Tử” có đoạn
nào có nội dung tương tự không anh?
- Tôi cũng nhớ đoạn này trong luận
văn của Machiavelli. Triết gia người Italia này còn viết rằng, một bậc quân
vương nếu muốn các thần dân tuân phục thì không cần phải để ý tới những lời
buộc tội mình tàn nhẫn. Và trừng phạt vài ba vụ, tức là đã thể hiện sự nhân đạo
của mình hơn những ai a dua với sự hỗn loạn. Bởi vì sự hỗn loạn sẽ làm cho tất
cả nhân dân chịu hậu quả, còn vài ba hình phạt chỉ khiến một số cá nhân riêng
lẻ phải chịu…
- Nghe cứ như Bộ trưởng Bộ Giao
thông - Vận tải Đinh La Thăng tổng kết về kết quả bước đầu từ những biện pháp
thắt chặt trật tự chống ùn tắc, làm giảm tai nạn giao thông ở Hà Nội vừa rồi:
“Việc cấm trông giữ xe tại 262 tuyến phố chỉ làm một bộ phận nhỏ bị ảnh hưởng
nhưng cả thủ đô được hưởng lợi vì vỉa hè, lòng đường thông thoáng, giao thông
đi lại thuận lợi…”. (Cười).
- (Cũng cười): Trong việc này quan trọng là liều lượng. Nói thế thôi
chứ bậc quân vương không thể nào quá tay trong các biện pháp trừng phạt của
mình.
- Đúng. Machiavelli đã nhắc nhở
rằng, bậc quân vương không được quá cả tin nhưng cũng không được quá đa nghi.
Cả tin thì sẽ trở nên thiếu thận trọng, còn quá đa nghi sẽ khiến các thần dân
nổi khùng. Về chuyện này thì trong “Hàn Phi Tử” nói thế nào hả anh?
- Trước hết ta cần phải nhớ rằng,
Hàn Phi là học trò của Tuân Tử. Học trò thì ít nhiều cũng chịu ảnh hưởng nào đó
của thầy. Tuân Tử, như Sử ký của Tư Mã Thiên đã viết, “ghét chính sự của thời
nước mất, vua hỏng luôn luôn nối nhau”.
- Thế mà vẫn có một số học trò khỏi
vòng là cong đuôi, cãi thầy nham nhảm trên mọi diễn đàn. Anh làm giảng viên đại
học, anh hẳn biết nhiều chuyện như thế. Nói chung, cá không ăn muối cá ươn.
- Đó chỉ là số ít. Hàn Phi không
phải là một người học trò cũ như thế. Hàn Phi có những ý tưởng giống như ông
thầy Tuân Tử. Tuân Tử là người nghĩ ngược với Mạnh Tử. Nếu Mạnh Tử cho rằng,
“nhân chi sơ tính bản thiện”, thì Tuân Tử lại cho rằng, “nhân chi sơ tính bản
ác”.
- Một khi “nhân chi sơ tính bản ác”
thì chúng ta cần phải sửa đổi tính người. Với góc nhìn đó thì Tuân Tử cần được
coi là người mở đầu cho Pháp gia trong nền văn minh Trung Hoa. Trong bộ sách
khảo cứu của mình về Hàn Phi và Hàn Phi Tử, hai tác giả Việt là học giả Nguyễn
Hiến Lê và Giản Chi đã nhấn mạnh rằng, theo Hàn Phi thì ngoại trừ một số ít
“tốt lỏi”, còn tuyệt đại đa số con người chúng ta tuyền “xấu đều”, thích chơi
hơn thích làm, lại tham lợi, lại “thân lừa ưa nặng”… Chính vì thế nên đã là vua
thì không nên hy vọng hão huyền rằng các thần dân sẽ tự giác làm điều thiện, mà
phải tìm mọi cách để dân biết sợ để đừng làm điều ác. Những gì Hàn Phi viết
cũng tương tự như trong luận văn “Il Principe”. Chính Machiavelli cũng đã viết,
tôi dịch đoạn này từ bản tiếng Nga: “Về con người nói chung thì có thể thấy
rằng, họ vô ơn và hay thay đổi, có thiên hướng giả dối và lừa đảo, họ sợ nguy
hiểm và hám lợi: khi ta làm cho họ có bổng lộc thì họ hết lòng hết dạ với ta,
thề sẽ không tiếc ta bất cứ thứ gì, cả máu, cả mạng sống, cả con cái, cả gia
sản, nhưng khi ta có gì làm khó với họ thì họ sẽ quay lưng lại với ta ngay. Và
thật bất hạnh thay quân vương nào quá tin vào những lời ngon ngọt của họ mà
không đề phòng trước phút hiểm nguy. Bởi tình bằng hữu mà có thể đạt được bằng
tiền chứ không phải bằng sự vĩ đại và sự cao thượng thì chỉ có thể mua, chứ
không thể duy trì mà tận dụng nó trong lúc hiểm nguy…”. Có cảm giác như một
trích đoạn lấy từ “Hàn Phi Tử”!
- Có lẽ chỉ là “đồng khí tương cầu”
thôi! Tôi nghĩ ở đầu thế kỷ XVI, Machiavelli có lẽ chưa thể có bộ Hàn Phi Tử để đọc.
- Theo anh, Pháp gia nhấn mạnh tới
những biện pháp gì để vua có thể chăn dân một cách có hiệu quả nhất?
- Nho giáo luôn luôn đề cao, nhấn
mạnh việc lấy cái đức để cảm hóa con người. Còn tư tưởng Pháp gia thì
lại chủ trương lấy sự thưởng phạt nghiêm minh để làm phương thức chăn dân.
Chính Hàn Phi đã từng viết về vua Thuấn, người đã dùng đức để cảm hóa dân và
từng được Khổng Tử hết lời ca ngợi, rằng (tôi cũng xin dẫn từ cuốn sách về Hàn
Phi của học giả Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi), ông Thuấn sửa cái xấu cho dân thì
một năm mới sửa được một tật, ba năm mới sửa được ba tật. Trong khi đó tuổi thọ
của ông có hạn mà tật của dân thì vô cùng; lấy cái hữu hạn để trừ cái vô cùng
thì trừ được bao nhiêu đâu?! Nhìn theo góc độ ấy nên Hàn Phi cho rằng, nếu vua
ra lệnh làm đúng phép thì thưởng, trái phép thì bị phạt và thực hiện lệnh này
thực nghiêm ngắn thì sáng ban lệnh, chiều sự tình đã thay đổi rồi, chỉ trong
mười ngày khắp nước đã thay đổi cả, đâu phải đợi tới một năm…
- Tôi nghĩ rằng ở phương Đông hay
phương Tây cũng thế, ông vua nào cũng cần phải làm cho thần dân e sợ bằng các
hình phạt. Và đối với thần dân thì phải biết sợ thì mới làm người tử tế được.
Tôi nhớ là có ai đó từng nói rằng, đáng sợ nhất là những kẻ không biết sợ là
gì!
- Hàn Phi nói rất hay về các nguyên
tắc phạt. Với ông, không chỉ y phục xứng kỳ đức mà hình phạt cũng phải tương
xứng với tội lỗi đã phạm. Làm được như thế thì kẻ bị phạt cũng không oán người
đã phạt.
- Tôi nhớ Hàn Phi cũng đã kể câu
chuyện gần như ngụ ngôn về Tử Cao, người khi làm chức coi ngục đã xử tội chặt
chân một kẻ phạm tội nặng. Sau này, khi Tử Cao cũng bị rơi vào vòng lao
lý vì bị liên lụy với một vụ làm phản, gặp lại kẻ phạm tội kia thì anh ta không
hề tỏ ra oán hận Tử Cao. Hỏi thì anh ta nói, tội tôi khi ấy đáng bị chặt chân
nên ông mới chặt chân, làm sao khác được?! Đúng là phải công bằng, ngay cả đối
với tội lỗi. Công bằng thì khắc nghiệt cũng không gây nên oán thù.
- Hàn Phi cũng nhấn mạnh rằng, hình
phạt mà thích đáng thì nhiều cũng vô hại, nếu không thích đáng thì tuy ít cũng
là hại. Ông cũng dạy rằng, đã phạt thì phải mạnh tay, phải cương quyết. Mà đã
phạt thì phải phạt thật nặng. Ông viết trong thiên Lục phản rằng, ai bảo phải
giảm nhẹ hình phạt thì tức là người ấy đang truyền bá cái thuật làm cho loạn
vong. Học giả Nguyễn Hiến Lê và Giản Chi đã dịch đoạn này như sau: “Thưởng phạt
mà xác định là để khuyến thiện, cấm ác. Thưởng hậu thì mau được cái mình muốn,
phạt nặng thì mau cấm được cái mình ghét… Cho nên rất ham bình trị thì phải
thưởng cho hậu, rất ghét rối loạn thì phải phạt cho nặng… Vả lại hình phạt
không chỉ để trị tội nhân, nó còn làm để sáng pháp độ của vua… Một tội ác có
thể ngăn cấm bằng một hình phạt nặng thì chưa chắc đã ngăn cấm được bằng
hình phạt nhẹ; còn một tội ác ngăn cấm được bằng một hình phạt nhẹ thì càng dễ ngăn
cấm bằng hình phạt nặng. Cho nên đặt ra hình phạt nặng thì mọi sự gian tà sẽ
chấm dứt, mọi sự gian tà chấm dứt thì thương tổn cho dân ở chỗ nào?”.
- Nghe ghê răng đấy. Nhưng nói cho
cùng, đã bao nhiêu chế độ lấy sự trừng phạt hà khắc làm phương châm trị dân nhưng
những sự gian tà nói cho cùng có bao giờ chấm dứt đâu! Lắm khi kết quả lại
ngược với những gì mong muốn.
- Thì thế. Tần Thủy Hoàng là người
từng rất hâm mộ Hàn Phi, sau khi đọc xong những chương Cô phẫn, Ngũ đố của bộ Hàn Phi Tử đã từng thốt lên, giá gặp
được tác giả của những dòng viết tuyệt vời này thì chết cũng không ăn năn… Và
sau khi thống nhất Trung Hoa, Tần Thủy Hoàng đã áp dụng các chiêu thức trị quốc
trong Hàn Phi Tử. Lúc đầu thì cũng
có kết quả nhưng rồi sự hà khắc quá đáng của tư tưởng Pháp gia đã khiến cho
lòng dân công phẫn, con giun xéo lắm cũng phải quằn và rốt cuộc là nhà Tần bị
sụp đổ…
- Theo anh, đâu là những điểm yếu,
hệ lụy từ học thuyết Pháp gia của Hàn Phi?
- Hệ lụy của cả Pháp gia và cá nhân
Hàn Phi là ở chỗ: toàn bộ học thuyết này được xây dựng trên hai tiên đề, coi
như mặc nhiên phải thừa nhận mà không chứng minh. Một là, cái này hơi giống Nho
giáo: ngôi vua là không được động chạm, “bất khả tư nghị”, dịch một cách nôm na
là “miễn bàn luận”. Vì thế vẫn chừa chỗ cho một kẻ lộng hành.
- Hóa ra tất cả hệ thống pháp luật
ấy mà mình đã đặt ra đều không dành cho vua, mà dành cho tất cả các bề tôi… Vua
trong tư tưởng Pháp gia vẫn có vai trò tối thượng, phải được tôn kính tuân theo
triệt để. Mọi thứ trong xã hội nó đều nằm trong tay vua, kể cả luật pháp.
- Nó phục vụ cho vua!
- Đôi khi điều đó lại tệ hơn những
giáo lý Nho giáo bình thường…
- Đúng vậy!
- Hàn Phi khuyên vua phải nắm hết
quyền thưởng phạt. Theo ông, vua thì không được ủy quyền thưởng phạt cho bất cứ
ai khác. Ông ví đó như nanh vuốt của loài cọp, không có nanh vuốt thì dễ bị
vuốt râu hùm lắm. Ông cũng kể lại câu chuyện ngụ ngôn về Tử Hãn với vua
Tống. Số là, Tử Hãn đã ngon ngọt tâu với vua Tống rằng, khen thưởng và ban ơn
là những việc làm cho dân thích, vậy thì bệ hạ nên làm những việc đó. Còn chém
giết trừng phạt toàn là những việc làm cho dân ghét, vậy thần xin gánh vác
những việc này. Vua Tống bùi tai nghe theo vì cho rằng Tử Hãn quá yêu mình nên
mới đưa ra sự “phân công công tác” này. Thế nhưng, rốt cuộc là về sau mọi người
chỉ sợ Tử Hãn thôi vì y được vua cho quyền quyết định nên trừng phạt ai và
trừng phạt đến mức độ nào. Và hệ lụy tất yếu đã đến, vua không còn uy lực của
vương quyền nữa, đến nỗi sau một năm đã bị Tử Hãn hạ sát để cướp ngôi…
- Phải nói rằng, Pháp gia tôn quân
đến cực độ, tôn quân hơn cả Nho giáo. Trong tư tưởng Pháp gia, vị trí của nhà
vua cai trị chứ không phải nhà vua cai trị. Cho nên Pháp gia không quá coi
trọng phẩm hạnh của người ngồi trên ngai vàng, thứ mà Nho giáo luôn luôn đòi
hỏi ở ông vua, mà chỉ coi trọng tính chính thống của vua, đến cái thế của vua
mà thôi. Hàn Phi từng viết rằng, “Nghiêu, Thuấn, Kiệt, Trụ ngàn đời mới xuất
hiện một lần, số đó rất ít. Mà cái thường thấy trên đời thì là hạng người trung
bình, cho nên tôi nói về thế là nói về hạng trung bình. Hạng người trung bình
thì trên không bằng Nghiêu, Thuấn, dưới không đến nỗi như Kiệt, Trụ. Nếu cứ giữ
chặt pháp luật, dùng quyền thế thì nước trị, quay lưng lại, bỏ quyền thế thì
nước loạn. Nay bỏ quyền thế quay lưng lại với pháp luật mà đợi Nghiêu, Thuấn
tới là nước trị thì ngàn đời loạn mới có một đời trị. Giữ pháp luật, dùng quyền
thế mà đợi Kiệt, Trụ; Kiệt, Trụ tới là nước loạn, thì ngàn đời trị mới có một
đời loạn…”.
- Thế Pháp gia thực sự không đặt ra
tiêu chí nào để một người có thể trở thành quân vương ư?
- Có chứ. Hàn Phi chẳng hạn, đặt ra
yêu cầu về một nhà cai trị khôn ngoan. Nhà vua khôn ngoan không thể tự tung tự
tác muốn đặt ra luật pháp gì cũng được. Pháp gia cho rằng, nhà vua phải tuân
theo ba quy tắc chính trong việc đặt ra luật pháp. Đó là, luật pháp phải hợp
thời; phải được biên soạn sao cho dân dễ biết, dễ thi hành và đặc biệt là phải
công bằng…
- Có ý kiến cho rằng, Pháp gia chỉ
phò vua thôi nên chủ trương hạ thấp các quyền cá nhân của con người và nhấn
mạnh tới tính vượt trội của nhà nước so với quyền cá nhân. Anh thấy thế có đúng khöng?
- Đúng, đấy chính là điểm yếu thứ
hai của Pháp gia mà tôi muốn nói tới. Đó là, Pháp gia không tính đến hạnh phúc
của cá nhân của người dân.
- Tức là chỉ tính cái lý mà không
có cái tình ở trong đấy. Nếu Mạnh Tử coi “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh”, thì Hàn Phi lại cho rằng, dân phải hy sinh vì vua, không được nghĩ tới
cá nhân mình. Trong cảm nhận của Hàn Phi, vua hiển nhiên là người chỉ lo toan
tới quyền lợi của xã tắc.
- Đúng vậy. Nói chung, Pháp gia được
xây dựng trên cơ sở của sự ngu dân phổ biến, chủ nghĩa ngu dân phổ biến. Tức là
dân chỉ có hai nhiệm vụ chính: cày ruộng và đánh giặc (canh chiến). Và khi canh, anh phải nộp tất cả mọi thứ theo
tỷ lệ và bổn phận được quy định vào trong kho nhà nước, phần còn lại mới là của
anh. Chiến thì phải có quân công, mà
quân công thì cụ thể hóa bằng thủ cấp, hoặc bằng vật tương đương, chẳng hạn,
một bên tai,.. Đương nhiên, nhà cầm quyền cũng vẫn để cho dân sống. Học thuyết
ấy, những người chủ trương quan điểm ấy vẫn để cho dân sống, nhưng mà người dân
chỉ có sống một cách bần hàn nhất...
- Trong trạng thái ngắc ngoải thôi.
- Tức là chỉ vừa đủ để tái sản xuất
sức lao động.
- Chính vì thế mà nó làm hạn chế sự
phát triển, nó không khơi dậy nguồn năng sáng tạo trong lòng dân. Thế theo anh,
ở Việt Nam ta, triều đại nào ảnh hưởng của Hàn Phi mạnh? Liệu có có ông vua
Việt nào lại có cách hành xử theo Hàn Phi Tử?
- Tôi phải nói ngay thế này, trong
lịch sử Việt Nam, không ai là một nhà tư tưởng theo phái Pháp gia thực sự cả,
vì học thuyết ấy không được truyền bá rộng ở ta. Những nhà nghiên cứu Đông
phương đã chỉ ra rất rõ là, bắt đầu từ đời Hán trở đi ở Trung Hoa thì học vấn
của Pháp gia chỉ còn là một nền giáo dục bí truyền.
- Bí truyền nội bộ trong giới cai
trị thôi?
- Chỉ khi anh đi làm quan cai trị
thì anh được gọi về triều để học cái đó, mà học nhập tâm, không được ghi chép
cơ. Và học được rồi thì anh làm theo những thủ đoạn, những phương pháp của Pháp
gia. Cho nên trong triều có hai cách chia đội ngũ quan lại, có quan văn và quan
võ, có đường quan và học quan. Đường quan tức là quan cai trị, học quan là quan
dạy học. Học quan vẫn có thể có chức vụ rất cao, lên đến tận Thượng thư, nhưng
nếu là học quan thì không được học Pháp gia. Đường quan thì mới được học Pháp
gia, nên mới gọi đấy là lối học bí truyền. Phần còn lại, phần Nho thì thoải
mái, vì thế người ta mới gọi lối học của Nho là lối học công truyền, tức là cứ
đưa ra thoải mái, công khai. Cho nên khi áp dụng vào nền chính trị thì nó có
một cơ chế mà nó trở thành cơ chế kinh điển của Trung Quốc từ đời Hán, gọi là
“âm pháp dương Nho, nội pháp ngoại Nho”…
- Đọc sách “Hàn Phi Tử” dễ thấy
rằng, Pháp gia rất chú trọng đến thuật, đến tâm thuật, tức những thủ đoạn đặc
biệt và bí mật được nhà vua cai trị sử dụng đối với đội ngũ quan lại dưới quyền
để duy trì vai trò độc tôn và tối thượng của mình. Đạo quân thần cần tới quá
nhiều thủ đoạn, thậm chí có cả những thủ đoạn thâm độc và tàn bạo. Chỉ cần hiểu
một cách sơ lược như thế cũng có thể nhận ra rằng, đó chính là một nền chính
trị mang tính đạo đức giả hai mặt.
- Hoàn toàn là hai mặt, cái đó thậm
chí là công thức cai trị kinh điển của Trung Quốc từ mấy nghìn năm nay, là công
thức mà nếu anh hiểu được đúng bản chất nó thì anh sẽ hiểu được cả chế độ ở
Trung Quốc một cách thực sự. Không một xã hội nào ở Trung Hoa dùng Nho thuần mà
cai trị được và tổ chức được. Cho nên nó phải dùng Pháp, tùy theo mức độ,
liều lượng, chứ còn thời nào của Trung Quốc cũng có cái chuyện này... Cho
nên người ta mới nói đến nguyên tắc “Nho Pháp tịnh dụng”, tức là lược lấy để
dùng, lấy một ít cái này, lấy một ít cái kia để kết hợp với nhau.
- Cái đó cũng là cái đúng chứ,
không có một học thuyết nào có thể áp dụng một cách “thuần chủng” vào cuộc đời
này được vì cuộc đời nó phức tạp, nó xanh tươi hơn mọi thứ lý luận mà các trí
giả có thể nghĩ ra.
- Ở ta thực ra mà nói thì tất cả các
ông vua Việt Nam mà tôi có dịp thẩm định, tôi thấy rằng, không có ông nào ở ta
mà phương thức cai trị có sắc thái chính là Pháp gia cả. Không có!
- Thế ở Trung Quốc thì những ông
vua nào mà sắc thái chính là Pháp gia?
- Ở Trung Quốc thì triều đại đầu
tiên mà cả triều đại theo Pháp gia, như chúng ta đã nói ở trên, là nhà Tần, đời
Tần Thủy Hoàng. Trước đó, mấy nước hùng cường lên được và tranh nhau làm ngũ bá
cũng toàn là nhờ Pháp gia cả, chẳng hạn Ngụy, Tần, Trịnh, Tề, cả Sở nữa. Lâu nhất và đậm nhất, liên tục nhất chính là
Tần. Sau này, mấy ông vua hùng mạnh của Trung Quốc như Hán Vũ Đế, rồi ở giai
đoạn sau này như Lý Thế Dân của nhà Đường, tức là Đường Thái Tông, rồi nhà
Nguyên, nhà Thanh, nhà Minh đều có…
- Yếu tố Pháp gia rất nặng?
- Yếu tố Pháp gia ấy thể hiện mạnh
nhất là ở những ông vua sáng nghiệp.
- Pháp gia là thứ vũ khí công hiệu
để giành chính quyền về tay mình.
- Chính xác! Thế nhưng, có một điều
là, khi họ lên ngôi vua rồi, khi họ lập được quốc rồi, thì họ lại phải đi theo
lối truyền bá Nho giáo…
- Để duy trì sự ổn định, giềng mối
xã hội, tôn ti trật tự! Không thể dùng chính sách lấy thiên hạ để trị thiên hạ,
đó là bài học bất biến.
- Để trị nước thì không thể nào
thiếu Pháp gia, ở Trung Quốc là như thế! Nhưng để làm cho đắc nhân tâm và để
tạo ra được sự yên ổn tương đối, thậm chí trên cả phương diện văn hóa, phong
tục, đạo đức thì Nho giáo có vai trò của nó. Cho nên hai cái đó ở Trung Quốc
không thể tách khỏi nhau.
- Tức là trong thời loạn, khi cần
phải cướp chính quyền thì người ta sẽ dụng Pháp gia một cách công khai hơn?
- Không hẳn chỉ ở lúc cướp chính
quyền đâu. Vì thế này: Nói những ông vua sáng nghiệp thì thường sử dụng Pháp
gia nhiều thì không có nghĩa là chỉ vì cướp chính quyền, mà là xã hội khi ấy đã
dẫn đến tình huống các thế lực phân tán. Dùng cụm từ có tính chất công thức cũ
là, hào kiệt bốn phương nổi lên như ong, xã hội theo quan điểm khi ấy là loạn.
Trong thời loạn thì anh phải có quyền thuật, có mưu mẹo và cái quyền mưu, nếu
nói theo ngôn ngữ truyền thống, thì quyền mưu nghiêng nặng về Pháp gia. Anh
không có quyền mưu thì không làm được gì. Nhưng nếu anh muốn tổ chức xã hội cho
nó yên ổn thì như chính Nguyễn Trãi cũng đã khuyên vua mình: “Quyền mưu bản thị
dụng trừ gian/ Nhân nghĩa duy trì quốc thế an”. Hai câu rất rõ, quyền mưu vốn
là để trừ gian, còn nhân nghĩa thì mới duy trì được thế nước yên ổn. Thế nhưng
trong thực tế, các ông vua khi dùng cái nhân nghĩa thì cũng có rất nhiều phương
diện là ngụy thiện.
- Tức là đạo đức giả!
- Đạo đức giả!
- Mức độ ngụy thiện của chế độ
chuyên chế rất nặng, nói chung của các loại chính quyền và các xã hội còn tồn
tại các giai cấp khác nhau thì đều đạo đức giả rất nặng!
- Cực kỳ nặng! Không có quyền lực
nào không có phương diện ngụy thiện, không có một quyền lực nào lại không
ngụy thiện và vấn đề là đến mức độ nào thì người ta chịu được, xã hội chịu
được…
- Không chịu được thì sẽ “cùng tắc
biến”!
- Đúng vậy!
- Pháp trị và đức trị, có hai con
đường, hai phương thức trị nước thôi, phải khöng anh?
- Về lý thuyết, thì còn có thể có
những “công thức” khác, chẳng hạn như “vô vi nhi trị”, nhà nước thần quyền, như
học thuyết Anarchism mà ở ta dịch là chủ nghĩa vô chính phủ, hay cơ chế tự
quản…Nhưng trong hiện thực đời sống chính trị thế giới tự cổ chí kim, thì quả
hai phương thức đó là phổ biến nhất. Cần nói rõ thêm một điều, tuy chưa thuộc
chủ đề cuộc đối thoại này, rằng nền pháp trị của xã hội dân chủ - cộng hòa có
nhiều điểm rất khác về nguyên lý so với nền pháp trị chuyên chế của Trung Quốc
cổ đại, của nền pháp trị tiền dân chủ nói chung, vì vậy không nên đánh đồng một
cách đơn giản.
- Xin cảm ơn anh!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét