Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2013

Nước mắt dành ngày gặp mặt NAM HÀ

 

Đất nước của những người con gái, con trai. Đẹp như hoa hồng, cứng hơn sắt thép.


Câu trả lời hay nhất - Do người đặt câu hỏi bình chọn

Hai câu đó trích từ bài ''Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi'' của Nam Hà (tên thật là Nguyễn Anh Công). Toàn văn như sau:

CHÚNG CON CHIẾN ĐẤU CHO NGƯỜI SỐNG MÃI VIỆT NAM ƠI!

Đường dài đi giữa Trường Sơn
nghe vọng bài ca đất nước

Đất nước
Bốn ngàn năm không nghỉ
Những đạo quân song song cùng lịch sử
Đi suốt thời gian, đi suốt không gian
Sừng sững dưới trời, anh dũng hiên ngang

Đất nước
Của những câu chuyện đều làm ta rưng rưng nước mắt
Đã trở thành những bài ca không bao giờ tắt
Trên mỗi con đường, mỗi thôn xóm ta qua
Từ non ngàn cho tới biển xa

Đất nước
Của thơ ca
Của bốn mùa hoa nở
Đọc trang Kiều tưởng câu hát dân gian
Nghe xôn xao trong gió nội mây ngàn.

Đất nước
Của những dòng sông
Gọi tên nghe mát rượi tâm hồn
Ngọt lịm, những giọng hò xứ sở
Trong sáng như trời xanh, mượt mà như nhung lụa

Đất nước
Của những người mẹ
Mặc áo thay vai
Hạt lúa củ khoai
Bền bỉ nuôi con, nuôi chồng chiến đấu.

Đất nước
Của những người con gái, con trai
Đẹp như hoa hồng, cứng như sắt thép
Xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt

Đất nước
Của Bác Hồ
Của óc thông minh và lòng dũng cảm
Của những đèn pha cách mạng
Soi sáng chân trời, xuyên suốt đại dương

Ôi tuổi thanh xuân
Mang bốn nghìn năm lịch sử trong tim
Ta sung sướng được làm người con đất nước
Ta băng tới trước quân thù như triều như thác
Ta làm bão làm giông
Ta lay chuyển trời đất
Ta trút hờn căm để làm nên những vinh quang bất diệt
Giáng xuống quân thù
Như sấm sét không nguôi
Sức mạnh bốn ngàn năm đã biến thành bão lửa ngút trời.

Đất nước
Ta hát mãi bài ca đất nước
Cho tuổi thanh xuân sáng bừng lên như ngọc
Cho mắt ta nhìn tận cùng trời
Và cho chân ta đi tới cuối đất
Ôi Tổ quốc mà ta yêu quý nhất
Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi,
Việt Nam ơi!


Đường Trường Sơn
Bình Thuận, 1966

Nước mắt dành ngày gặp mặt

QĐND - 7 tháng trước
QĐND - Với hàng vạn người lính thời chống Mỹ, bài thơ Chúng con chiến đấu cho người sống mãi, Việt Nam ơi! của Nam Hà có sức thôi thúc đặc biệt, nhất là khi theo sóng phát thanh đến các chiến trường:
QĐND - Với hàng vạn người lính thời chống Mỹ, bài thơ Chúng con chiến đấu cho người sống mãi, Việt Nam ơi! của Nam Hà có sức thôi thúc đặc biệt, nhất là khi theo sóng phát thanh đến các chiến trường:
.. Đất nước của những người con gái, con trai
Đẹp hơn hoa hồng, cứng hơn sắt thép
Xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt dành ngày gặp mặt...
Nhà văn Nam Hà, tên là Nguyễn Anh Công, sinh năm 1933 ở xã Bắc Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Anh mồ côi cha khi lên 9 tuổi, vừa đi học, vừa làm ruộng giúp mẹ nuôi hai em nhỏ. Năm 1950, khi đang học đệ tứ, có phong trào thanh niên tòng quân, anh nhập ngũ làm lính huyện đội và bắt đầu viết báo với bút danh Trúc Hà. Bài bút ký Bộ đội về làng là tác phẩm đầu tay được đăng báo là lý do cấp trên điều anh về làm phóng viên Báo Giữ làng của tỉnh đội Nghệ An. Nhưng chỉ đến tháng 12 năm 1950 thì thiếu giấy in, báo ngừng hoạt động, anh được cử đi học lớp Quân chính đào tạo tiểu đội trưởng. Năm 1952, anh tham gia chiến dịch Hà Nam Ninh, phục kích trên đường số Mười, đánh nhau với lính Âu Phi, đơn vị anh hy sinh 35 người. Trải nghiệm trận mạc, những tác phẩm đầu tay của anh đều viết trực tiếp về người lính. Năm 1959, Trúc Hà được cử đi dự một trại viết do Tổng cục Chính trị tổ chức và khi trại kết thúc, anh về làm cán bộ biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Một buổi sớm mùa hè năm 1964, Trúc Hà đang tập thể dục cạnh gốc đại ở số 4 Lý Nam Đế thì nhà thơ Vũ Cao đạp xe đến. "Vào chỗ mình có tý việc", Vũ Cao trả lời câu chào của Trúc Hà bằng một lời mời. Tý việc đó là câu hỏi "Trúc Hà đi B được không?". Tính Chủ nhiệm Vũ Cao vẫn thế, anh không bao giờ ra lệnh, mà chỉ thăm dò ý kiến. Trúc Hà tự nghĩ mình là người trẻ nhất cơ quan, chẳng có lý do gì để thoái thác, nên chỉ vài phút suy nghĩ anh đã nhận nhiệm vụ.
Công việc đầu tiên của nhà văn, nhà báo đi B hồi đó là đổi bút danh. Nguyễn Ngọc Tấn đã lấy tên con trai là Nguyễn Thi làm bút danh mới. Nguyên Ngọc đổi thành Nguyễn Trung Thành. Anh quyết định đổi Trúc Hà thành Nam Hà, với ý nghĩa Trúc Hà ở miền Nam.
Nhà văn Nam Hà
Đã trên 44 năm rồi, nhưng anh vẫn nhớ rõ những ngày đó. Anh được cử làm chính trị viên một đoàn 32 người đi B bổ sung cho chiến trường khu 6. Năm giờ sáng ngày 25 tháng 5 năm 1964, từ khu văn công Mai Dịch, ô tô đưa đoàn từ biệt Hà Nội bằng cách đi một vòng quanh hồ Hoàn Kiếm, trước khi đi thẳng vào Vĩnh Linh. Dạo đó chưa có chiến tranh phá hoại trên miền Bắc nên từ Hà Nội vào giới tuyến được đi bằng ô tô. Từ Bến Hải vào đến Bình Long, đoàn anh phải đi bộ mất đúng một trăm ngày. Mang nặng, ăn đói, mùa mưa ướt át tăng võng áo quần, đến nơi tập kết cuối cùng ở Đồng Nai Thượng, vừa đọc xong câu ca Làm trai cho đáng nên trai/ Phú Xuân đã trải, Đồng Nai cũng từng thì sốt rét quật anh quỵ xuống. Anh nhớ mãi cô y tá người địa phương lên chiến khu chưa lâu, cố bón cho anh từng thìa cháo và khuyên rằng: "Nếu không cố nuốt thì thế nào anh cũng chết"! Và, khi cơn sốt trong người anh tạm lui, thì cô ấy lại hy sinh vì máy bay địch. Khu 6 là đất miền Đông "gian lao mà anh dũng" trong câu hát thời kháng chiến chống Pháp, thời chống Mỹ càng gian lao gấp bội. Cán bộ, bộ đội phải tự túc lương thực bằng cách phát rẫy trồng sắn. Anh là người nổi tiếng làm rẫy giỏi của cơ quan, từ việc chọn rừng, đến chuyện phát, đốt cây và trồng trỉa. Sáu tháng liền không có lấy một hạt cơm, không có muối phải đốt cỏ gianh lấy tro, hoặc lá đu đủ giã nhỏ với ớt, để "đánh lừa cái lưỡi". Thiếu đói triền miền, toàn trai tráng mà có khi bước đi mỏi long đầu gối, không co chân nổi mà leo dốc. Có những lần máy bay Mỹ rải chất độc hóa học xuống đúng khu vực đơn vị đang phát rẫy, chẳng biết chạy đi đâu, bèn ngồi xuống tại chỗ, căng tấm ni lông lên che, chất độc chảy nhỏ giọt bốn phía như nước mưa. Cả rẫy sắn nhiễm độc lá trụi, củ đen, đắng không thể ăn được. Tập truyện Mùa rẫy của anh được viết trong hoàn cảnh ấy. Những ngày đó anh luôn nhớ lời căn dặn của Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị trước lúc đoàn lên đường, là phải viết ngắn để phục vụ trước mắt, đồng thời phải có ý thức tích lũy để viết dài về sau. Ngoài nhiệm vụ chính làm Báo Quyết thắng của Quân khu, anh ghi chép đầy hàng chục quyển sổ để làm tư liệu viết dài, nhưng một lần đi công tác xa bị cháy rừng rồi cháy lán, thiêu sạch mọi thứ; một lần giấu trong hang bị biệt kích Mỹ lấy mất. Trong ba lô của anh còn có ảnh và một bức thư gửi về Tổng cục Chính trị báo cáo một năm công tác. Bức ảnh ấy bọn địch đã in vào truyền đơn nói rằng anh bị bắt, cho máy bay thả xuống quê hương làm mẹ anh khóc cạn nước mắt, sau đó em anh từ Nghệ An ra tận Tạp chí Văn nghệ Quân đội xác minh mới biết được sự thật. Còn tất cả tài liệu chúng mang về Mỹ, sau này nhà thơ Phạm Tiến Duật đến thăm Bolton, cựu chiến binh Mỹ đã chuyển bức thư này về nước và đăng trên tuần báo Văn nghệ với nhan đề Bức thư của một nhà văn.
Năm 1971, Nam Hà vào B2 để viết về gương chiến đấu của những anh hùng dũng sĩ nhân Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua toàn miền. Xong việc, anh được giữ lại để bổ sung cho Văn nghệ Quân giải phóng, nơi Nguyễn Trọng Oánh đang phụ trách và hai người bạn đồng hương vốn cùng cơ quan lại được công tác với nhau thêm gần 4 năm nữa...
Năm 1974, quân đội có chủ trương những ai đã đi B mười năm thì được ra Bắc. Nam Hà đúng tiêu chuẩn ấy. Thấy anh Nguyễn Trọng Oánh gầy yếu, Nam Hà có ý định nhường suất ra Bắc của mình, khi đó anh Oánh chỉ mới được tám năm. Anh Oánh không chịu, bảo Nam Hà "ra Bắc còn lo chuyện vợ con, đã trên bốn mươi tuổi rồi còn gì"... Thế là cuộc nhường nhịn không thành. Hơn một tháng trời đi xe, đi bộ ngược đường Trường Sơn, Nam Hà mang ba lô về làng. Người làng reo lên khi nhận ra anh rồi gọi to: "Anh Công về rồi bà ơi!". Mẹ anh bước qua bậu cửa ôm chầm lấy anh trên thềm khi anh chưa kịp đặt ba lô: "Con còn về được với mẹ hả Công?". Hai mẹ con cứ đứng ôm nhau mà khóc trong sự chứng kiến của người làng nghe tin anh về tìm đến. Mười năm xa, người mẹ anh thấp, nhỏ đi nhiều và mái đầu đã bạc trắng, nước mắt thấm vào áo anh. Anh thầm nghĩ: Với mình, nước mắt ngày gặp mặt là thế này đây!
Khi về Hà Nội, anh có nhiệm vụ chuyển một loạt thư từ cho bạn bè, nên tìm đến cô Phương, cháu ruột của anh Oánh đang học năm cuối của Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội. Do duyên trời se, hai người nên vợ nên chồng và hôn lễ được tổ chức vào 10-5-1975. Một buổi trưa tháng 3 năm 1976, biết vợ đã sinh con ở nhà hộ sinh Hàng Bún, Nam Hà nhớ lại nhiều người bạn ở chiến trường như mình, khi trở về lấy vợ sinh con dị tật, nên giữa trưa, nhà hộ sinh đóng cửa, anh leo qua rào sắt, lẻn vào nơi vợ nằm, cố nhìn được chân tay, mặt mũi của con, thấy bình thường vội leo rào về nhà để mau báo cho hai bên nội ngoại. Khi viết thư, anh mới nhớ ra rằng, vì quá mừng, mình đã vội chạy ra, chưa biết được con trai hay gái, liền chạy đến leo rào một lần nữa, nhưng lần này bảo vệ đuổi, nên tận cuối chiều mới biết được con trai! Cảm giác hồi hộp, lo âu này không chỉ riêng anh. Năm 1999, trong chuyến thăm Mỹ, có cuộc tọa đàm với một số cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam, một cựu chiến binh ở Bolton nói với anh đại ý rằng: Khi đứa con đầu lòng sắp ra đời, anh không quan tâm là trai hay gái, đẹp hay xấu... mà chỉ mong nó có đầy đủ mặt mũi, tay chân! Thế đấy, ngay những người lính Mỹ cũng ám ảnh, kinh hoàng về chất độc hóa học Mỹ trút xuống trên chiến trường Việt Nam.
Nam Hà là người của công việc. Trong thời gian làm thư ký Chi hội Nhà văn Quân đội, anh đã làm một việc được dư luận đánh giá rất cao, đó là xuất bản Tổng tập Nhà văn Quân đội, gồm 5 tập, dày 5000 trang của 303 nhà văn đã và đang mặc áo lính. Phải chăng đó là bộ sách về văn học đồ sộ nhất ở nước ta?
Đến nay, nhà văn Nam Hà đã xuất bản trên hai chục tác phẩm, riêng tiểu thuyết đã vượt con số năm nghìn trang in. Bộ ba tiểu thuyết Đất Miền ĐôngTrong vùng tam giác sắt đưa anh tới Giải thưởng Nhà nước cao quý. Đã có cháu nội, cháu ngoại, dù sức khỏe có giảm sút nhưng luôn coi mình là người may mắn bởi anh là một trong 8 người còn lại sau chiến tranh của đoàn 32 người cùng đi B năm đó.
Ngồi đối diện với anh ở Hà Nội mà sao trong đầu tôi lại hiện lên hình ảnh hai mẹ con anh giữa quê nhà như một tượng đài: Người con cao gầy trong màu quân phục, đầu đội mũ tai bèo, lưng mang ba lô, nước da sạm xanh sốt rét, hai tay ôm choàng vai người mẹ thấp nhỏ, mặt áp vào áo con, mái tóc bạc trắng, cả hai nước mắt tuôn trào niềm vui gặp mặt.
Vương Trọng




1 nhận xét:

  1. Hồi đó đọc Mùa Rẫy nhiều lần, rồi sau này đọc cả Trong cùng Tam giác sắt, tiếc là không có bản điện tử. Rất mong được liên hệ email/ điện thoại tới ông.

    Trả lờiXóa