Lời truyền miệng dân gian về Hồ Chí Minh
| ||||||||||||||
Một trong những nhà sử học nổi tiếng nhất của Việt Nam, ông Trần Quốc Vượng, đã qua đời, thọ 71 tuổi.
Tin từ Việt Nam cho biết giáo sư Trần Quốc Vượng đã nằm viện một tháng nay vì căn bệnh ung thư thực quản.
Ông qua đời vào lúc 2h55 sáng nay.
Tang lễ sẽ được cử hành vào sáng 12-8 ở Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, Hà Nội.
Là
tác giả của hàng chục đầu sách và nhiều bài viết, từ nhiều
thập niên qua, ông được xem là một trong những nhà khảo cổ học
và nghiên cứu sử Việt Nam hàng đầu.
Một trong những bài viết gần đây của ông, ''Hà Nam quê tôi'', có thể đọc bằng cách bấm vào link bên phải.
Một bài viết khác liên quan chủ đề lịch sử khi ra đời năm 1993 đã gây ý kiến trái chiều.
Đó
là "Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức
Nho gia (kinh nghiệm điền dã)", in trong quyển Trong Cõi (NXB Trăm
Hoa, California, 1993). Đây là tập hợp một số tiểu luận của
giáo sư Trần Quốc Vượng sau chuyến đi công tác ở Hoa Kỳ.
Chủ
đề chính của bài là thông qua những kinh nghiệm hỏi chuyện dân
gian, người ta có thể biết những điều mà sách vở không nhắc
đến.
Theo tác giả, "Đây là những lời truyền
miệng nhân gian, cho nên cùng lắm, chúng chỉ có thể coi là những giai
thoại mà, nếu không khó tính lắm, ta cũng có thể gọi là những giai thoại
lịch sử."
"Nói theo kiểu Pháp, những điều tôi
cố gắng ghi lại một cách trung thực qua công tác điền dã dưới đây là
Thật mà không chắc là Thực."
Dưới đây là trích đoạn phần cuối của tiểu luận của Trần Quốc Vượng:
Cũng đã có dăm cuốn sách nói về gia thế cụ Hồ Chí Minh, nhưng câu chuyện tôi sắp kể dưới đây thì chưa từng ai viết.
Chỉ
là lời truyền miệng dân gian, ở Kim Liên, Nam Đàn, ở một số người gốc
Nghệ hiện sống tại Hà Nội và nhiều nơi khác trên mảnh đất Việt Nam. Nếu
trong Folklore, có hiện tượng mà các nhà nghiên cứu gọi là "lan truyền"
(de transfest folklorique) thì từ lâu câu chuyện này cũng đã lan truyền
từ làng Kim Liên ra khắp huyện Nam Đàn rồi khắp tỉnh Nghệ Anh rồi rộng
ra hơn nữa ... Nhưng phạm vi lan truyền và số người biết câu chuyện này
phải nói là hạn hẹp. Vì người ta sợ động chạm đến cu. Hồ. Một cái sợ vô
nghĩa (insignifiant) nhưng người ta cứ gán cho nó cái ý nghĩa chính trị
giả tạo. Vì như bà Trịnh Khắc Niệm viết trong cuốn trong cuốn tiểu
truyện bằng tiếng Anh "Life and Death in Shanghai, đã được phiên dịch ra
tiếng Việt, ở xã hội "xã hội chủ nghĩa", cuộc đời của các lãnh tụ cộng
sản được coi là "bí mật quốc gia".
Nhưng đây
không phải là chuyện cu. Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cu. Hồ. Mà vì đây
là chuyện cụ thân sinh ra cu. Hồ, cu. Nguyễn Sinh Huy, mà cũng là
chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, Folklore,
chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài này.
Người
dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ
của ho. Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác: ông đồ nho -
cử nhân - Hồ Sĩ Tạo.
Cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc
dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An
(đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử cuối thế kỷ XIV đầu thế
kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở
xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn Hoan, người đồng chí thân cận
một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ giao phụ trách công tác đối
ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa
thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hòa
nhân dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở Trung Hoa, có viết một tài liệu
lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà vợ nhà văn lớn Đặng Thái Mai -
người một thời làm Viện trưởng viện Văn Học - là Hồ Thị Toan, cũng thuộc
dòng ho. Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ
trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có thời gian ngồi dạy học ở một nhà
họ Hà, người làng Sài, cùng một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam
Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là một nhà nghệ nhân dân gian, trong
nhà có "phường hát ả đào".
Nhà
họ Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát
hay, múa khéo, đặc biệt là múa Đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai
cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên
người làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bảo: má hồng thì mệnh
bạc (như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc Chinh Phụ Ngâm "hồng nhan đa
truân" - gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Hay như Nguyễn Du than thở
dùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều "chữ tài chữ Mệnh khéo là ghét
nhau", "rằng hồng nhan tự thuở xưa, cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu").
Vả ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo, lấy Tứ Dân (Sĩ, Nông, Công,
Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca
xướng ("xướng ca vô loài"). Cô Đèn Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà
rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có
bậc văn nhân: ông cử Hồ Sĩ Tạo. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" là lẽ
thường theo tâm lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân - tài tử - giai
nhân. "Trai tài gái sắc" mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng "không chồng mà
chửa". Mà ông cử Tạo thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt
vạ rất nặng nề, sỉ nhục hạng gái "chửa hoang", hạng "gian phu dâm phụ".
Để tránh nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm "thầy
đồ" được hết sức kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy
tính...
Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông
Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao mà góa vợ (bà vợ trước đã có một con
trai - Nguyễn Sinh Thuyết - và người con trai này cũng đã có vợ). Nhà
họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn Sinh Nhậm đến điều đình, "cho không" cô Hy
làm vợ kế ông này - như một người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì,
lấy ông già góa vợ - mong ém nhém việc cô gái đã "to bụng".
Công
việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới, có cheo cẩn
thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan
sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẽ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão
nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp
đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn "của thừa", "người ăn ốc (ông
cử Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)". "Miệng tiếng thế gian xì xầm",
ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời "nói ra, nói vào", lời
chì chiết của nàng dâu - vợ anh Thuyết - vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm
điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở
riêng với bà vợ kế.
Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế
này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc,
lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó không phải là con ông, con
nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng "tiếng bấc, tiếng chì" hơn
trước, vì ngoài việc bố chồng "rước của tội, của nợ", "lấy đĩ làm vợ"
thì nay còn nỗi lo": người con trai này - được ông nhận làm con - lớn
lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng chẳng nhiều nhặn gì của
một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra vào năm Quý Hợi, đời vua
Tự Đức thứ 16 (1863).
Vì trọng tuổi, lại vì lo
phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau đó, bà Hy
cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi. Lên bốn, về ở với
người anh gọi là "cùng cha khác mẹ" mà thật ra là "khác cả cha lẫn mẹ",
cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ muốn tống cổ
cái thằng "em hờ" của chồng này đi cho "rảnh nợ".
Không
cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về
vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy
vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của cuộc
đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu cưu mang
đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này.
May có ông tú
đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó, xót thương
đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác, lại có vẻ sáng
dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi Nguyễn Sinh Sắc
18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu lòng - Hoàng Thị
Loan - mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn nhà tranh ba gian ở
ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ở riêng.
Ta
dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ -
làng Chùa - hơn là với làng Sơn "quê nội", quê cha "hờ". Con cái ông, từ
người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh
Khiêm (tục gọi ông cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn (hay
Nguyễn Tất Thành - sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được
sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê Mẹ hay là quê "ngoại".
Khi cụ tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc
lại về ăn ở chung với bà đồ (tú) Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh bà
ngoại.
Qua giỗ đầu cụ tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc
đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng
"học điền", ruộng công của làng Chùa chia cho những người có học (nhằm
khuyến khích việc học) để học thêm - chứ không phải nhận ruộng học của
làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi (1895), ông thi trượt.
Nhờ
sự vận động gửi gấm của ông Hồ Sĩ Tạo - người cha thực của Nguyễn Sinh
Sắc - với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh
Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô
Huế. (Ai cũng biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm Giám sinh
phải là con cháu của những gia đình có thế lực, gọi là "danh gia tử đệ".
Nếu không có sự "can thiệp" của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan
thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn
có một "cử chỉ đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc
- đổi tên là Nguyễn Sinh Huy - đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học
Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt.
Ngày
22 tháng chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh
đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng
chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
ngày nay) trở thành con trai út.
Nguyễn Sinh Huy
đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc dùm rồi trở
vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng và được
"vinh quy bái tổ" về làng.
Theo thể thức triều
đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội - dù là quê nội danh nghĩa -
tức là làng Sen - Kim Liên. Hội đồng Hương lý và dân xã đã dựng nhà
tranh năm gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh đất vườn làng
Sen, để đón quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về làng.
Thế
là buộc lòng ông phải về "quê nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng
ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côn - Hồ Chí Minh ngày sau - về ở quê nội
nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì "đích thực"
và gắn bó với tuổi tho ông. Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo.
Nhưng
gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên.
Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô Huế nhận chức quan
(1904) ở bô. Lễ, đem theo hai con trai vào Huế học. Năm 1907, ông bị đổi
đi tri huyện Bình Khê ... Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan), khoảng
1910, ông phiêu bạt vô Sàigòn rồi lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về
làng Sen trở lại nữa.
Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng.
Người
ta bảo lúc sau khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua
Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái "bí mật" về cội nguồn
của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái đầu
biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông sang
Quỳnh Đôi nhận họ.
Còn Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn
Tất Thành - có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở làng Sen, có
nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là trước đó nữa, khi ông ở làng
Chùa quê ngoại gần gụi với làng Sen! Hay là sau đó nữa chả nhẽ không khi
nào cụ phó bảng hay bà Thanh hay ông Cả Đạt lại không kể với ông về "bí
mật" của gốc tích phụ thân mình?
Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - biết hay không biết chuyện này...
Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa.
Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh.
Sau
cách mạng tháng tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai
thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam - từ trí thức đến người dân quê
- lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí
Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi "về với Các Mác, Lê-nin" năm
1969.
Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh - còn quá nhiều dấu hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết
làm sao được khi cụ Hồ - tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của
người Ấn Độ - đã trở thành "huyền thoại" (myth). Huyền thoại Hồ Chí Minh
được hình thành trong vô thức dân gian (popular inconscience) mà Carl
Gustav Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có phần được hình
thành một cách hữu thức, bởi một số cán bộ gần cận cụ Hồ. Nghĩa là một
phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền thoại hóa (mystified).
Ngay
sau cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả cuốn sách (mỏng thôi!) về
Sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp cách mạng tháng
Tám. Và Sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về sau nữa, ở
miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong, dù là với
hậu ý (arrière-pensée) không ưa gì cụ Hồ.
Nhưng đó lại không phải là chủ đề của bài viết này.
Trở
lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng: Nguyễn
Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của
mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm.
Và
dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương, sau
cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh - tỉnh
Nghệ An - cụ Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen "quê
nội".
Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi. Vì như
ở trên ta đã thấy, cả một thời thơ ấu của cụ Hồ là gắn bó với quê
ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng
Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm, lại là khi đã bắt đầu khôn lớn?
Tôi
không muốn có bất cứ kết luận "khoa học" gì về bài viết này. Vì nó
không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ là việc ghi lại một số lời
truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay là cái khổ tâm, hay là cái
"mặc cảm" của một số nhà trí thức Nho gia từ đầu thế kỷ XIV (Trương Hán
Siêu, Chu Văn An) đến đầu thế kỷ XX (Nguyễn Sinh Huy) đối với làng quê.
Còn viết lách, thì bao giờ chẳng là chuyện: "thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý".
Trần Quốc Vượng
|
Giáo sư Trần Quốc Vượng và mối tình xuyên thế kỷ
Chỉ còn thiếu
mấy ngày nữa thôi họ sẽ kỷ niệm tròn hai năm ngày cưới. Thế mà số phận
dường như đã trêu cợt "mối tình xuyên thế kỷ" khi đã đưa ông, giáo sư -
nhà giáo ưu tú Trần Quốc Vượng nhẹ gót trần ai để bước vào cõi vĩnh
hằng.
Ngày vui ngắn chẳng tày gang, cô Bảy, vợ của cố giáo
sư, ngồi đó, trong cái tổ ấm hạnh phúc bình dị của hai người nay đã đèn
nhang trầm hương ly biệt mà nước mắt tuôn rơi.
Thế mà trước khi hay tin giáo sư Vượng mất không lâu
có nhiều người quả quyết với tôi rằng cô Bảy đã bỏ đi, đã ly hôn chỉ sau
đám cưới không lâu.
Dư âm cuộc hôn nhân của giáo sư Vượng một phen nữa lại
gây "sóng gió" trong dư luận. Thế nhưng, điều đó không tệ hại bằng việc
hình ảnh của cô Bảy, vợ giáo sư Vượng được nói đến như một người đàn bà
hám danh lợi, kết hôn vì "danh", vì "tiền" và giáo sư Vượng vì buồn, vì
thất vọng mà sinh ra trọng bệnh...
Cho đến khi một người có bố nằm cùng bệnh viện với
giáo sư Trần Quốc Vượng một tháng ở Bệnh viện Hữu nghị kể, suốt một
tháng liền khi anh là hàng xóm của cô ở bệnh viện, không lúc nào anh
thấy cô rời giáo sư.
Cô với bổn phận và tình thương của một người vợ chăm
bẵm và lo lắng cho chồng một cách tận tụy và thấu đáo đã khiến cho những
bệnh nhân và người nhà cùng phòng đều cảm động và thầm mừng cho giáo sư
Vượng có được người vợ tận tụy nhất mực. Thế mới biết làm người nổi
tiếng thật không đơn giản, vợ của một người nổi tiếng lại còn chịu nhiều
đắng cay hơn bởi miệng lưỡi của người đời, bởi biết bao nhiêu lời đồn
thổi, bao nhiêu câu chuyện thêu dệt, và không hiếm lời thị phi xung
quanh cuộc hôn nhân của họ.
Trò chuyện với cô Bảy, vợ của cố giáo sư Trần Quốc
Vượng vào ngày thứ 36 kể từ ngày giáo sư mất. Nước mắt vẫn cứ trào ra
ầng ậng trong đôi mắt buồn. Có lẽ, điểm nổi bật nhất trên gương mặt
nhiều nét cứng cỏi nhưng đa đoan của người đàn bà 42 tuổi này là đôi mắt
to, đen, hun hút một nỗi buồn thường trực. Không phải chỉ lúc này, mà
cả khi người đàn bà này vui cười thì đôi mắt kia vẫn ẩn chứa những u
buồn sâu thẳm. Phàm đàn bà có đôi mắt như vậy, cuộc đời không đa đoan
ghềnh thác thì cũng dông bão đoạn trường. Và quả thật, số phận cũng đã
không có ý định dành cho đời cô một sự yên tĩnh bằng an nếu không nói
rằng đã nhấn cô vào vực xoáy của nổi chìm, đứt đoạn.
![]() |
Những ngày hạnh phúc. |
Cô Bảy rưng rưng kể cái ngày đầu tiên cô phát hiện ra
căn bệnh ung thư quái ác của chồng. Hôm đó là một ngày rất buồn, ngày lễ
ông Công ông Táo của Tết Ất Dậu, nhà vừa có đại tang, con gái Phương
Anh của giáo sư Vượng với người vợ đầu tiên vừa mất được hơn một tháng
vì căn bệnh ung thư khi cô mới bước sang tuổi 30. Giáo sư Vượng gần như
suy sụp vì cái chết đau đớn của cô con gái. Thấy giáo sư ăn uống ít,
nuốt rất khó khăn, cô Bảy đinh ninh rằng chồng chỉ bị viêm họng thông
thường. Mặc dù vậy, cô vẫn nhất quyết bắt giáo sư đi khám.
Từ cái ngày định mệnh đó, sau một tuần của Tết Nguyên
đán lặng lẽ và đầy âu lo, đầy những linh đoán bất trắc là hành trình
dằng dặc và mệt mỏi từ bệnh viện này đến bệnh viện khác để xác định cho
chắc chắn căn bệnh như một sự di truyền quái ác của gia đình (Hai người
con gái của giáo sư Vượng với vợ đầu đều phải sống chung với căn bệnh
ung thư). Cả giáo sư Vượng và cô Bảy đều không thể ngờ rằng, bi kịch
bệnh tật một lần nữa đã giáng đòn chí mạng vào gia đình họ và số phận
của giáo sư Vượng. Là một nhà khoa học tinh đời, mọi cố gắng giấu giếm
bệnh tật của người vợ trẻ đều không qua nổi được chồng. Giáo sư Vượng đã
gần như sốc nặng khi biết rõ bệnh tật của mình. Dù vậy, bên ngoài ông
vẫn tỏ ra là người bình tĩnh lạc quan, động viên gia đình, vợ và các
con. Ngay cả sau này bệnh nặng, niềm khát khao sống trong ông vẫn không
bao giờ tắt.
Cô Bảy nhớ lại: xác định chắc chắn căn bệnh ung thư từ
cuối tháng 2, lúc đó đã di căn vào gan, vì thế bệnh tiến triển rất
nhanh, không tài nào kìm hãm được sức công phá từng ngày từng phút của
nó. Đến tháng 4, giáo sư đã không thể ăn uống được nữa mà phải đặt ống
thực quản. Mọi thuốc thang điều trị và cố gắng đến tột cùng cũng không
làm cho căn bệnh chậm tiến triển. Cuối tháng 6, giáo sư nhập viện. Lần
nhập viện này chỉ kéo dài được đúng 1 tháng 19 ngày thì giáo sư mất. Một
tháng 19 ngày, cô Bảy hầu như ngày nào cũng có mặt bên chồng. Đó là
những giờ phút người đàn bà trẻ vừa chăm chồng, vừa an ủi chính mình.
Hai người dù không bộc bạch ra cho nhau nhưng trong nỗi tự cảm của riêng
mình, họ đều lặng lẽ giấu đi những giọt nước mắt đang chảy trong lòng,
khóc thương cho số phận trớ trêu, duyên phận ngắn ngủi.
Kể lại những ngày cuối cùng của chồng, cô Bảy vừa
cười, vừa khóc, Cụ Vượng (cách gọi chồng âu yếm của cô Bảy) là một người
khi đứng trên giảng đường, hoặc trước hàng nghìn sinh viên, cụ tỏ ra
oai phong, hào sảng bao nhiêu thì trong đời thường, cụ lại hóm hỉnh, nói
chuyện có duyên và người đối diện với cụ hầu hết đều bị cuốn vào câu
chuyện đầy sức thuyết phục của cụ, nếu không nói là mê đắm bởi cái duyên
ăn nói thông minh của cụ. Ấy thế nhưng trong cuộc sống đời thường, cụ
lại là người nhút nhát khủng khiếp. Trong số những nỗi e sợ mơ hồ của cụ
thì cụ sợ nhất là bệnh viện. Có thể, sau hai cái chết vì trọng bệnh đầy
ám ảnh và đau đớn đối với người vợ đầu tiên mà cụ rất đỗi yêu thương,
với cô con gái, cụ đâm ra sợ cái không khí thương đau ở bệnh viện, sợ
màu trắng im lìm của những bức tường lạnh và sợ cả bác sĩ.
Vì thế, ngay cả khi đi khám, hoặc nhập viện rồi, cụ
không khi nào muốn rời vợ lấy một bước. Chỉ có vợ chăm sóc, ở bên cạnh
thì cụ mới yên tâm, mới chịu ăn uống, mới vui vẻ. Nhất là những ngày
cuối cùng, mỗi lần cô Bảy trở về nhà để đón con, tắm rửa hoặc giải quyết
những công việc lặt vặt không tên của gia đình là cụ Vượng dù không
phản đối nhưng bao giờ đôi mắt cụ cũng nhìn theo bóng vợ như một sự níu
kéo đầy luyến tiếc.
Cô Bảy nói mãi về ánh mắt của chồng trong những ngày
đó với một nỗi buồn nặng trĩu. Cả khi bệnh đã nặng lắm rồi, cụ không nói
được nữa, sự sống chỉ tính bằng ngày, bằng giờ thì điều tuyệt vời kỳ lạ
là cụ luôn luôn minh mẫn và tỉnh táo. Tỉnh táo một cách lạ lùng. Và đôi
mắt tỉnh táo của một người sắp đi xa nhìn theo bước chân của vợ trẻ mới
ám ảnh làm sao.
Giờ đây, tất cả đã thuộc về quá vãng. Trong ngôi nhà
từng là tổ ấm hạnh phúc của gia đình bé nhỏ (vợ chồng giáo sư và cô con
gái út Anh Thơ) không gian đã như ngưng đọng trong mùi trầm thơm da
diết. Người quá cố trên bàn thờ vẫn như đang nheo mắt mỉm cười trước
những thách đố, những trò ú tim của duyên phận và cuộc đời. Người từng
nổi danh trong việc đoán biết phận số cho bao nhiêu người khác mà chẳng
ngờ được phận số của mình sớm có ngày ai oán biệt ly. Nhưng rất có thể,
tự trong vô thức, cả sự lơ đãng ấy có thể có, có thể không trong gương
mặt đang nheo cười kia làm sao ai đoán đọc được. Chỉ biết rằng, ông nhẹ
gót ra đi, để lại đứa con thơ và người vợ trẻ với bao nỗi tiếc nuối ở
cuộc đời.
Cô Bảy đưa cho xem những dòng nhật ký nhạt nhòa, sau
ngày chồng mất. Lòng nhói đau không phải vì nỗi buồn của cô, mà vì những
dấu ấn của hai cuộc hôn nhân mà một người đàn bà như cô đã nếm trải.
Đọc trong trang nhật ký ấy những cột mốc "lịch sử"
đáng nhớ trong đường tình duyên của cô. Đó là cô gặp ông lần đầu tiên
cách đây 12 năm, hai người đi lễ chùa Phật Tích và giáo sư Vượng đã cầu
hôn cô Bảy trước bàn thờ Mẫu, và cô Bảy đã nhận lời làm vợ thày Vượng.
Thế mà hai năm sau, khi đứa con trong bụng được 4 tháng, chỉ vì tự ái
bởi câu nói đùa quá đà của người tình, cô Bảy đã đi lấy chồng. Cuộc hôn
nhân với người họa sĩ ấy chỉ tồn tại đúng 12 tháng thì họ làm xong thủ
tục chia tay.
Cô Bảy nói rằng: "Thực ra từ khi nhận lời làm vợ giáo
sư Vượng tháng 9/1993, cho đến lúc cụ mất, hai người chỉ thực sự xa nhau
đúng có hai tuần trong lúc tôi bận làm lễ cưới và giáo sư Vượng đi công
tác xa. Sau đó, khi giáo sư Vượng bay ra, chúng tôi lại trở về với nhau
liền. Có nhiều lý do để mối tình ấy 8 năm sau khi cuộc hôn nhân đầu của
tôi tan vỡ, mới có một kết thúc viên mãn. Chỉ có điều tôi khẳng định,
dù chúng tôi chưa có điều kiện để về ở với nhau dưới một mái nhà, chưa
có thủ tục tuyên bố với họ hàng bạn bè, nhưng chúng tôi chưa bao giờ xa
nhau trong suốt mười mấy năm sống trong tình yêu.
Có nhiều người nghi ngờ mối tình của chúng tôi, cho
rằng tôi ham tiền, hám danh nên đã thêu dệt bao chuyện thị phi để đàm
tiếu. Nhưng có những người biết rõ giáo sư Vượng thì tỏ ra thông cảm cho
tôi, thương tôi thiệt thòi vì giữa chúng tôi quá chênh lệch tuổi tác.
Thực ra mọi người đã nhầm, và có thể mọi người không hiểu rằng, giáo sư
Vượng đã mang đến cho tôi một tình yêu quá đủ đầy về nhiều nghĩa. Giáo
sư là một người đàn ông tuyệt vời, và khi đó với tôi, tuổi tác, ngoại
hình trở nên thực vô nghĩa khi mà tôi với bản năng đàn bà đã được đón
nhận một cách thỏa mãn tình cảm của chồng. Tôi chưa bao giờ thấy khổ,
hay thoáng chút nuối tiếc. Có chăng chỉ là cuộc hôn nhân đến ngày viên
mãn lại quá ngắn ngủi. Trước đó, yêu nhau, sống đời sống vợ chồng với
nhau thật nhưng cũng chỉ là đầy vơi vì chúng tôi chưa có một căn nhà
chung. Thế đấy, tôi cũng chẳng muốn thanh minh, chẳng cần ai hiểu...
Tôi quá mệt mỏi bởi những lời thị phi. Ngày còn sống,
giáo sư chỉ trêu tôi rằng, ai bảo ham lấy người nổi tiếng thì phải chịu
trả giá chứ".
(Theo An Ninh Thế Giới