Thứ Hai, 11 tháng 3, 2013

Tào Tuyết Cần với tác phẩm Hồng lâu mộng

Tào Tuyết Cần với tác phẩm Hồng lâu mộng

 Tác giả
Tác phẩm Hồng lâu mộng gồm 120 hồi do 2 tác giả sáng tác. Tào Tuyết Cần 80 hồi đầu và Cao Ngạc 40 hồi sau.
Tào Tuyết Cần (1716 – 1763?) xuất thân dòng dõi người Hán nhưng nhập tịch Mãn. Gia đình ông từ đời xưa đã làm quan cho nhà Mãn, vua Khang Hy 5 lần đi kinh lý phương Nam thì đã 4 lần trú tại nhà ông. Qua đó có thể thấy được cuộc sống hào hoa và mối quan hệ mất thiết giữa gia đình họ Tào với hoàng thất.
Không những vậy, gia đình ông còn có truyền thống về văn học. Ông nội ông là Tào Dần - là nhà thơ, từ, soạn sách.
Thời niên thiếu, ông sống một cuộc sống sung sướng, nhưng sau đó cha ông bị cách chức, tịch biên tài sản, cuộc sống khốn khổ bắt đầu, nhà họ Tào suy tàn nhanh chóng. Ảnh hưởng của giai cấp quý tộc trong con người ông rất rõ: một mặt ông quyến luyến với những kỷ niệm và hào quang quá khứ, vì vậy thế giới quan của ông nhuốm màu sắc hư vô và bi quan. Mặc khác, từ chỗ cực thịnh đến chỗ cực suy, ông nhận thức được bản chất xấu xa, tội ác của giai cấp thống trị, chiêm nghiệm sâu sắc hơn về những gì đã trải qua trong quá khứ. Đáng chú ý là gia đình ông là một hào môn vọng tộc có quan hệ mật thiết với cung đình nên càng bộc lộ bản chất hủ bại của giai cấp bốc lột, phản ánh tập trung hơn mâu thuẫn xã hội đương thời. Ông dễ dàng nhận nhận thấy hoặc cảm nhận sự khúc xạ của những hiện tượng lịch sử. Tất cả những điều này chuẩn bị sẵn vốn sống dồi dào cho sáng tác của ông sau này.
Về con người Tào Tuyết Cần, chúng ta chỉ biết rất sơ lược: giỏi thơ, khéo vẽ, thích rượu, cao ngạo. Lúc viết xong tám mươi mấy hồi, vì ốm đau không tiện chạy chữa, lại thêm đau khổ vì đứa con yêu chết yểu, ông từ trần.
Cao Ngạc là người giữ nhiều chức quan lớn trong triều đình Càn Long, Gia Khánh. Hoàn cảnh khác nhau đó khiến cho tác phẩm tuy về cơ bản không có dấu vết chắp vá nhưng khuynh hướng tư tưởng có khác. Cao Ngạc để nhân vật chính là Bảo Ngọc đi thi, đỗ đạt, lấy vợ, có con trai nối dõi rồi mới đi tu chứ không như dự thảo của Tào Tuyết Cần là bỏ đi mất tích sau khi tình yêu tan vỡ. Cao Ngạc cũng để gia đình họ Giả được minh oan, phục chức, cố gắng tô điểm cho bức tranh xế chiều của hai phủ Vinh, Ninh một màu sắc tươi sáng. Sự đổi thay này thể hiện kỳ vọng của họ Cao đối với một gia đình vọng tộc, ý muốn đầy lùi kết thúc bi kịch đang ám ảnh những đứa con trung thành của chế độ phong kiến
image
 Tác phẩm:
Hồng lâu mộng (giấc mộng lầu son) còn có tên là Thạch đầu ký (Câu chuyện hòn đá), Kim Lăng thập nhị kim thoa (Mười hai chiếc trâm vàng đất Kim Lăng) là bộ tiểu thuyết hiện thực vĩ đại xuất hiện vào thời Càn Long (cuối thế kỷ 18). Đây là tác phẩm có ý nghĩa cắm mốc một giai đoạn văn học vì dung lượng đồ sộ, sự thành thục trong phương pháp sáng tác, sự âm vang của những chuyển mình lịch sử mà nó mang đến cho người đọc.
Đầu niên hiệu Gia Khánh, Hồng lâu mộng đa trở nên nổi tiếng khắp cả nước, người ta tranh nhau mua đọc, thậm chí còn có câu “Khai đàm bất thuyết Hồng lâu mộng, độc tận thi thư diệc uổng nhiên” (Mở đầu câu chuyện mà không nói Hồng lâu mộng thì đọc hết thi thư cũng uổng công).
Hồng lâu mộng không chỉ có giá trị ở văn hay, ở cốt truyện tình éo le, gay cấn, ở lối miêu tả tinh vi mà còn ở việc đã phản ánh được một cách trung thực xã hội Trung Hoa hồi thế kỷ 17 – 18, đã nói lên được tiếng nói đau thương của một lớp thanh niên nam nữ đương thời và vạch ra được chiều hướng tan rã tất yếu của chế độ gia đình khắc nghiệt của xã hội mục nát đời Mãn Thanh.
image
TÌM HIỂU VÀI NÉT VỀ TIỂU THUYẾT HỒNG LÂU MỘNG
 Kết cấu, cốt truyện
Theo sách Lý luận văn học đã định nghĩa: “Kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục tác phẩm, là sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác phẩm trên cơ sở đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định”.
Như vậy kết cấu là một phương diện hết sức quan trọng của tác phẩm văn học, là nhân tố liên kết các nhân vật, các sự kiện, các tình huống. Sự sắp xếp hợp lí sẽ tạo cho tác phẩm có được sự gắn bó tự nhiên, nhuần nhị và chứa đựng nội dung tư tưởng theo ý đồ tác giả. Với tiểu thuyết, một thể loại văn xuôi tự sự, kết cấu có ý nghĩa then chốt trong sự thành công của nó. Đánh giá về kết cấu của tiểu thuyết, người đọc sẽ được cung cấp cái nhìn toàn diện hơn khi xem xét nó.
Hồng lâu mộngcủa Tào Tuyết Cần được viết theo kết cấu chương hồi, một kết cấu truyền thống  phát triển khá rầm rộ  dưới thời Minh-Thanh với các tác phẩm như Tây du ký của Ngô Thừa Ân, Thủy Hử của Thi Nại Am…
Hồng lâu mộng gồm 120 hồi, 80 hồi đầu do Tào Tuyết Cần viết, 40 hồi sau do Cao Ngạc viết. Mỗi một chương hồi là một sự việc, một hành động xảy ra trọn vẹn, và tiếp tục các chương hồi sau là các sự việc, hành động khác. Ví dụ: Hồi thứ 41 là: “Am Lũng Thúy, Bảo Ngọc thưởng trà ngon, Viện Di Hồng, già Lưu say rượu ngủ”, kể về câu chuyện Bảo Ngọc cùng mọi người ra Am Lũng Thúy nơi Diệu Ngọc xuất gia để uống trà ngon, và già Lưu say rượu nên ngủ trên giường của Bảo Ngọc. Tiếp đến hồi 42 với những sự kiện khác: “Giải mối ngờ, Bảo Thoa ngỏ lời thân thiết, thêm vui chuyện, Đại Ngọc nói ý xa xôi”. Ta dễ dàng nhận thấy rằng ở mỗi chương hồi bao giờ cũng có mấy câu đề dẫn mang tính chất tóm tắt nội dung của chương đó. Lấy hồi thứ 41 làm ví dụ, những sự kiện nhỏ chủ yếu xoay quanh hai nhân vật Bảo Ngọc và già Lưu. Kết cấu của Hồng lâu mộng diễn ra theo trình tự phát triển tự nhiên của thời gian, sự việc xảy ra tuần tự từ đầu đến cuối và không bị đứt quãng như một đường thẳng. Đó cũng là điểm mạnh của tiểu thuyết chương hồi nói chung.
Kết cấu có mối quan hệ đặc biệt với cốt truyện và nhân vật. Ở trong tác phẩm Hồng lâu mộng, kết cấu là sợi chỉ nối liền các hành động và các nhân vật với nhau. Hành động của Bảo Ngọc chống lại chế độ phong kiến được diễn ra theo trình tự và trong mối quan hệ với các nhân vật khác như Giả Chính, Đại Ngọc, Tiết Bảo Thoa… Ngay từ đầu chàng đã không chọn công danh sự nghiệp làm mục tiêu phấn đấu, cho nên xuyên suốt trong tác phẩm ta thường thấy chàng hay bỏ học, yêu Đại Ngọc xa rời Bảo Thoa . . . chính sự liền mạch trong suy nghĩ và hành động tạo nên tư tưởng của chàng: căm ghét chế độ phong kiến, khát vọng tự do.
Một điều đặc biệt của Hồng lâu mộng cũng như các tiểu thuyết chương hồi khác là sự xuất hiện của chương đầu và chương cuối như một kiến giải riêng cho tác phẩm, đứng tách riêng ra trong mạch truyện. Hồi thứ nhất trong tác phẩm là: “Chân Sĩ Ẩn trong mộng ảo biết đá thiêng, Gỉa Vũ Thôn lúc phong trần mơ người đẹp”. Hồi này nêu tóm tắt nguyên nội dung cuốn truyện và dụng ý của tác giả. Đây là một lối văn ký thác, ẩn ẩn, hiện hiện, một nghệ thuật đặc biệt : “Hồi thứ nhất này là hồi mở đầu cuốn sách. Người làm sách xin nói . . . trong sách chép việc gì? Người nào?”.  Như thế chương đầu thường là lời giới thiệu, thể hiện nhân sinh quan và đặc điểm nghệ thuật của nhà văn. Chương cuối thứ 120 cũng là lời kết thúc tác phẩm : “Chân Sĩ Ẩn kể rõ cảnh thái hư, Gỉa Vũ Thôn kết thúc Hồng lâu mộng” tưởng như chẳng ăn nhập gì với toàn bộ cốt truyện nhưng kì thực là sự tổng kết lại toàn bộ tác phẩm: “Téra toàn là chuyện bày đặt viễn vông cả. Không những người làm không biết, người chép không biết mà cả người đọc cũng không biết nữa. Chẳng  qua chỉ là thứ văn chương du hý, để cho thích thú tính tình mà thôi”. Nói như vậy để chứng tỏ rằng kết cấu còn là cách bố trí, sắp xếp sự xuất hiện một cách hợp lí các yếu tố ngoài cốt truyện. Người ta còn gọi kết cấu này là kết cấu đầu cuối tương ứng.
Một điều đáng bàn trong kết cấu tiểu thuyết này là ở phần kết thúc tác phẩm. Nếu tiểu thuyết chương hồi nói riêng và tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc nói chung thường chuộng kết thúc có hậu, cái thiện sẽ luôn chiến thắng, cái ác bị trừng phạt, tài tử giai nhân tương phùng sau bao sóng gió thì đến Hồng lâu mộng, Tào Tuyết Cần lựa chọn một kết thúc không có hậu: Lâm Đại Ngọc uất ức quá thổ huyết mà chết, Giả Bảo Ngọc đi tu. Phá vỡ kết cấu truyền thống, tiểu thuyết đã mở ra hướng giải quyết mới cũng như cách nhìn khác về cuộc sống của nhà văn.
Kết cấu, cốt truyện của Hồng lâu mộng còn có đặc điểm khác biệt riêng so với các tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Nếu các tiểu thuyết chương hồi khác bàn về anh hùng hay những câu chuyện hoang đường kì lạ, hay những chuyện tình yêu lâm li bi đát… thì Hồng lâu mộng nghiêng về cuộc sống thường nhật. Do một văn nhân sáng tác, tác phẩm đề cập đến vấn đề hết sức trọng đại, đó là tư tưởng dân chủ ban đầu, sự hưng vong của một gia tộc điển hình cho sự hưng vong của một giai cấp. Một truyện của đời nay, của cuộc sống hằng ngày, không còn sự phân tuyến thiện ác, chính tà rõ ràng nữa mà là những con người thục với đầy đủ tính cách và cung bậc cảm xúc. Cuộc sống hàng ngày luôn hiện ra là nguyên nhân cho những mâu thuẫn, xung đột tồn tại và phát triển, câu chuyện đang diễn biến, tính cách nhân vật đang lộ dần. Những sự kiện tựa như những cơn sóng lớn: trích đoạn Giả Bảo Ngọc bị đòn, đoạn Nguyên Xuân về thăm nhà… đến những suy nghĩ rất mơ hồ của Bảo Ngọc : “Ở gần cô chị thì quên mất cô em” là kết quả của sự phát triển tự nhiên trong cuộc sống hằng ngày, là biểu hiện tập trung của mâu thuẫn và ý nghĩa cuộc sống. Mỗi tình tiết, chương hồi thay đổi, phát triển là một dòng nước chảy xuôi khó thấy sự đứt gãy, chắp vá. Cuộc sống là một chỉnh thể không tách rời được. Đằng sau những sự việc rối rắm, đan xen, chồng chéo nhau đều có ngọn nguồn và những mạch ngầm riêng. Suy nghĩ và dẫn đến hành động, hành động sau là kết quả của hành động trước… Tào Tuyết Cần có tài thâu tóm được đời sống bao la, muôn vẻ, rồi triển khai tuần tự, hài hòa mà chẳng hề làm gián đoạn, mất mát. Ta hầu như khó có thể rút được chương, đoạn nào của cuốn sách mà không làm tổn hại đến toàn bộ tác phẩm. Dưới ngòi bút của ông, các tình tiết, các mẩu chuyện đều được biến thành những bộ phận phức tạp của một chỉnh thể, chúng đan cài vào nhau, ẩn hiện trong tác phẩm. Đồng thời những tình tiết và nhân vật đó không ngừng được mở rộng ra, làm phong phú thêm và vận động theo một xu hướng chung.
Lấy cuộc sống hằng ngày làm đối tượng miêu tả, các nhân vật, tình tiết được Tào Tuyết Cần xây dựng nên như những gì có thực ngoài đời. Trong thế giới ấy, nhân vật vừa là một cá thể độc lập rất riêng biệt nhưng cũng mang nét chung cho kiểu người. Tính chương hồi trong kết cấu không còn là một trở lực, mà mang một điểm nhấn riêng. Tiểu thuyết vừa có tính cổ điển trong tiểu thuyết chương hồi, đồng thời xuất hiện sự phá vỡ kết cấu truyền thống bằng việc viết lại câu chuyện đời thường.
Tao Tuyet Can khong phai tac gia Hong Lau Mong
 Nhân vật
Cũng giống như các tác phẩm có cốt truyện thuộc dòng văn xuôi tự sự (theo quan niệm truyền thống) như truyện vừa, truyện ngắn, nhân vật trong tiểu thuyết có một vai trò, vị trí, và ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đó là hạt nhân của sự sáng tác, là trọng điểm để nhà văn lý giải tất cả mọi vấn đề của đời sống xã hội. Nhân vật tiểu thuyết có thể chỉ là sự hóa thân là hình bóng, là mộng tưởng của chính tác giả như trong tiểu thuyết lãng mạn; cũng có thể được xây dựng từ những nguyên mẫu của đời sống kết hợp với những năng lực tổng hợp và sáng tạo của nhà văn như trong tiểu thuyết hiên thực. Nhân vật có thể là nạn nhân của một bối cảnh xã hội, cũng có thể được coi là chủ nhân của lịch sử đủ khả năng làm chủ vận mệnh của mình… Điều quan trọng là nhân vật ấy phải là điểm xuất phát và trung tâm của sự mô tả nghệ thuật.
Như nhà văn Tô Hoài đã từng cho rằng: “Nhân vật là nơi duy nhất tập trunghết thảy trong một sáng tác”. Quả đúng như vậy, nhân vật không chỉ là nơi bộc lộ tư tưởng, chủ đề tác phẩm mà còn là nơi tập trung các giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Thành bại của một đời văn, của một tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào việc xây dựng nhân vật. Và với tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, một tác phẩm được xếp vào hạng một trong Tứ đại kì thư của Trung Hoa thì nghệ thuật xây dựng nhân vật của nó đạt đến đỉnh điểm mà hiếm có tác phẩm nào đạt được trong giai đoạn văn học thời Minh-Thanh và cả trước đây. Thế giới nhân vật của Hồng lâu mộng phong phú về tính cách, ngoại hình, cũng như phản ánh chân thực thế giới nội tâm của nhân vật.
Tiểu thuyết Hồng lâu mộng có một khối lượng nhân vật khổng lồ. Nhân vật nam là 235, nhân vật nữ là 213, tổng cộng là 448 nhân vật, đủ mọi tầng lớp, từ vương phi cung cấm đến những kẻ quyền thế, công tử tiểu thư khuê các, cho đến cả những người thuộc tầng lớp hạ lưu đều xoay quanh gia đình họ Giả.
Hồng lâu mộng không những đã đưa lại một nội dung mang ý nghĩa thời đại mà nó còn làm được một việc vĩ đại đó là đổi mới thi pháp tiểu thuyết Trung Quốc. Lỗ Tấn nói: “Từ khi Hồng lâu mộngra đời, tư tưởng và cách viết truyền thống đã bị phá vỡ”. Nếu như trước đây thể loại tiểu thuyết chương hồi từng gặp trong Thủy Hử hay Tây Du Ký chỉ tập trung vào hành động, hoạt động bề ngoài hay lối nói của nhân vật thì chuyển sang Hồng lâu mộng, vẫn là tiểu thuyết chương hồi, nhưng đã phản ánh được những cái nhìn mới về con người, đã miêu tả được tâm lý nhân vật với xúc cảm đầy tính nhân văn của tác giả.
Xét ở góc độ kết cấu-cốt truyện trong Hồng lâu mộng thì ta có thể nhận thấy 3 loại nhân vật đó là nhân vật chính, nhân vật phụ và nhân vật trung tâm.
Nhân vật giữ vai trò then chốt, xuất hiện nhiều trong tác phẩm, là nhân vật chính, hành động chính của tác phẩm. Nhân vật chính thường được khắc họa tương đối đầy đủ trên các mặt ngoại hình, nội tâm, tính cách, quá trình phát triển. Với những đặc điểm này thì trong tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng có 3 nhân vật chính là Giả Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa. Trong đó, Bảo Ngọc và Đại Ngọc là hai nhân vật trung tâm của tác phẩm.
Trong Hồng lâu mộng, tác giả đã xây dựng được rất thành công hình tượng của ba nhân vật chính là Gỉa Bảo Ngọc, Lâm Đại Ngọc và, đối lập với họ, tác giả còn sáng tạo một hình tượng nhân vật có ý nghĩa điển hình rất cao là Tiết Bảo Thoa. Qua việc khắc họa tính cách ba nhân vật này, cùng quan hệ yêu đương phức tạp của họ, Tào Tuyết Cần còn phơi bày ra những mối xung đột, mâu thuẫn mang nhiều ý nghĩa xã hội.
Giả Bảo Ngọc là nhân vật được tác giả tập trung bút lực và gửi gắm vào đó nhiều tâm huyết nhất và cũng là nhân vật xuyên suốt cuốn tiểu thuyết. Điểm nổi bật nhất ở nhân vật này là trước sau anh ta vẫn hành động ngoài vòng quy định của đạo đức tinh thần phong kiến. Anh ta chống lại khoa cử, không muốn đi con đường “ra làm quan trị nước” theo lối sống phong kiến. Cái gọi là “hành vi lạđời, tính tình ngang bướng” trở thành đặc trưng tính cách của Bảo Ngọc. Nhưng chính vì thế mà tính cách của anh ta càng nổi bật và khó lòng lẫn lộn với những nhân vật khác.
Xuất thân từ một gia đình “chung minh đích thực, thế phiệt trâm anh”, Giả Bảo Ngọc cũng sống cuộc đời sung túc của giai cấp bóc lột như tất cả các ông chủ phong kiến trong phủ Vinh quốc. Do đó con người anh ta hằn sâu những dấu ấn giai cấp không xóa nhòa được. Tuy nhiên trong con người của Bảo Ngọc luôn muốn thoát ra khỏi cuộc sống hiên tại, thoát ra khỏi bờ tường vây quanh phủ Vinh quốc, đó cũng chính là hàng rào sắt bao bọc lấy anh ta. Bởi vậy, Bảo Ngọc thường oán than về cảnh sống của mình: “Ta chỉ hận cả ngày bị nhốt trong nhà, không được một chút tự chủ, làm gì người ta cũng biết hết, không người này khuyên thì kẻ khác ngăn. Chỉ được nói chứ chẳng được làm, tuy có tiền, nhưng chẳng được tiêu”. Anh ta còn tự giận mình “sinh ra ở chốn công hầu mà không sinh vào nhà nho quan kiết”.
Giả Bảo Ngọc được sự cưng chiều của gia đình mà nhất là Gỉa Mẫu hết mực yêu thương và chiều chuộng, vì thế mà phần nào lơi lỏng sự đè nén đối với Bảo Ngọc, đồng thời cũng tạo cho Bảo Ngọc một thói quen sinh hoạt đặc biệt chung lộn trong chốn màn the”.
chung lộn trong chốn màn the nên Giả Bảo có cơ hội “trốn học”, không buộc phải ngoan ngoãn tiếp thu nền giáo dục phong kiến nghiêm khắc và mặc dù là con trai vẫn được sống ngoại lệ trong vườn Đại Quan, là nơi toàn đàn bà con gái. Trong phủ Vinh quốc thối tha bẩn thỉu, khu vườn này tương đối sạch sẽ. Bảo Ngọc ngày lại qua ngày sống ở đây, nên anh ta thấy những cô thiếu nữ bị thế lực phong kiến đè nén đó càng đẹp và càng đáng yêu. Nói như Bảo Ngọc thì: “Xương thịt con gái là nước kết thành, xương thịt con trai là bùn kết thành. Ta trông thấy con gái thì thoải mái, thanh thản, thấy con trai như nhiễm hơi dơ bẩn kinh người”.
image
Giả Bảo Ngọc vừa là nhân vật chính vừa là nhân vật trung tâm trong tác phẩm chính vì thế nhân vật này đã được tác giả miêu tả số phận và tính cách không đơn giản. Do hạn chế của thời đại và giai cấp lúc bấy giờ mà Giả Bảo Ngọc chưa thực sự thoát ra khỏi tư tưởng thống trị phong kiến, trong con người chàng còn chịu nhiều ảnh hưởng của ý thức tư tưởng và xã hội cũ.
Số phận và tính cách không đơn giản của Giả Bảo Ngọc còn thể hiện ở mâu thuẫn giữa khát vọng tự do và sự ràng buộc nặng nề của gia đình và xã hội phong kiến. Đó là tình yêu chân thành và quý báu dành cho Đại Ngọc như chính sinh mệnh của Bảo Ngọc nhưng Bảo Ngọc đã không vượt qua được rào cản của gia đình cũng chính là rào cản của xã hội phong kiến đã ngăn cản tình yêu của mình.
Sau cái chết của Lâm Đại Ngọc lại vấp phải những mâu thuẫn nghiệt ngã của thời đại, Bảo Ngọc sinh ra mắc chứng ngây, cứ cười hì hì suốt ngày. Điều đó càng đẩy sâu anh ta vào bi kịch. Cuối cùng giải pháp đi tu đã được Bảo Ngọc chọn lựa. Đi thi và thi đỗ cao để an ủi gia đình, rồi bỏ trốn đi tu. Giả Bảo Ngọc  đã đi hết sự phát triển tính cách một cách hợp lí và đó cũng chính là số phận của anh ta.
Bên cạnh Giả Bảo Ngọc thì Lâm Đại Ngọc cũng là nhân vật chính và là nhân vật trung tâm trong tác phẩm.
Lâm Đại Ngọc cũng là một hình tượng phản nghịch của chế độ phong kiến. Nàng xuất thân trong một gia đình “hư hương mônđệ”, “đời đời tước hầu”. Vì cha mẹ mất sớm, nàng đến ở nhờ trong phủ Giả lâu dài với tư cách là người thân. Cuộc sống “ăn nhờ ở đậu” ở nhà người đã để lại nỗi đau xót trong sâu thẳm tâm hồn nàng. Nàng không chịu tuân theo số mệnh nhưng không làm sao thoát ra khỏi số mệnh. Vì thế, nàng thường than thân trách phận, cám cảnh cho thân mình.“Đa sầu, đa cảm” đã trở thành nét đặc trưng trong tích cách và khóc lóc cũng trở thành chuyện thường nhật trong cuộc sống của nàng.
Vì Lâm Đại Ngọc và Giả Bảo Ngọc sống với nhau từ nhỏ, “vai kề má áp” nên tình cảm ngày càng sâu nặng và họ đã trở thành đôi tình nhân sống chết có nhau. Nàng yêu Giả Bảo Ngọc nhưng do thân phận của nàng, mỗi khi Giả Bảo Ngọc ngỏ lời là nàng lại giận hờn, buồn tủi, làm ra vẻ cự tuyệt… “ Bảo Ngọc cườinói: - Tôi là người nhiều sầu, nhiều bệnh, cô là trang nghiêng nước, nghiêngthành”. Lâm Đại Ngọc nghe thấy câu ấy, mặt và tai đỏ bừng lên, lập tức dựng ngược lông mày, như cau lại nhưng không phải là cau, trố hai con mắt, như trợn mà không phải trợn. Má đào nổi giận, mặt phấn ngậm hờn, trỏ vào mặt Gỉa Bảo Ngọc: “- Anh nói bậy, muốn chết đấy! Dám đem những lới lẳng lơ suồng sã lăng nhăng để khinh nhờn tôi! Tôi về mách cậu mợ đấy”. Không một nét giả dối, nàng là một nhân vật đã hiện ra với chiều sâu tâm lí đa dạng, được bộc lộ qua tình yêu, qua những quan hệ khác.
Điều đặc biệt quan trọng làm cho tình cảm của Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc càng gắn bó và trở thành một đôi không thể xa nhau vì ở họ có cùng tư tưởng, họ đều là những con người chống lại những qui định khắt khe và cổ hủ của lễ giáo phong kiến. Lâm Đại Ngọc không bao giờ khuyên Giả Bảo ngọc đi thi để lập công danh như Tiết Bảo thoa. Họ thích và khát khao cuộc sống tự do, hạnh phúc trong tình yêu nhưng chính xã hội phong kiến đã không cho họ cái quyền giản đơn đó.
Khi nghe nói Giả Bảo Ngọc sắp lấy vợ và người được chọn sẽ là người trong phủ thì Lâm Đại Ngọc nghĩ chắc người đó sẽ là mình. Chứa chan hi vọng,  từ đau buồn và tuyệt vọng trong ốm đau, nàng trở lại sống linh hoạt, tươi đẹp… Ai ngờ đó lại là giây phút nàng cận kề cái chết nhất. Vào thời điểm cuối cùng quyết định nhân duyên của Bảo Ngọc, thì Giả Mẫu và Vương phu nhân bèn theo cái “kì mưu” của Phượng Thư, dùng quỷ kế “đánh tráo”, cưới vụng Tiết Bảo Thoa cho Bảo Ngọc. Chính những thế lực phong kiến ấy là nguyên nhân phá hoại tình yêu của Lâm Đại Ngọc và cũng hủy hoại luôn sinh mệnh của nàng.
Tiết Bảo Thoa cũng là một nhân vật chính được Tào Tuyết Cần sáng tạo nên bằng những đường nét gọt đẽo tinh vi.
Nhân vật Tiết Bảo Thoa là một tính cách gần như đối nghịch với Lâm Đại Ngọc, Giả Bảo Ngọc. Tiết Bảo Thoa không bộc lộ những tình cảm chân thực của mình một cách hoàn toàn như Lâm Đại Ngọc, mà tất cả thường được nàng cân nhắc đắn đo. Nàng lúc nào cũng “an phận tùy thời”, “giả ngu giả dại”, nhất cử nhất động đều tỏ ra rất mực đoan trang hiền thục. Nói cách khác, Tiết Bảo Thoa là một nhân vật nữ lí tính. Nàng còn ít tuổi mà đầy bản lĩnh, ở nàng tất cả đều đúng mực, hợp lí, nàng là hiện thân của nguyên lí đạo đức phong kiến. Bao giờ nàng cũng là một người con gái sống cho gia đình, sống cho ý định của người khác và ý định đó luôn được nàng chấn nhận vì đó cũng chính là ý của nàng. Sự hòa hợp của nàng và gia pháp phong kiến là điều hoàn toàn tự nguyện. Với Giả Bảo Ngọc, một người không yêu nàng, nhưng theo sự sắp đặt của bề trên, nàng đã lấy Giả Bảo Ngọc không một chút tự ái và đã làm tròn bổn phận của người vợ. Nếu nói “bản chất”“bản lĩnh” giai cấp thì quả nàng là hiện thân của giai cấp. Khi con hầu Kim Xuyến nhảy xuống giếng tự tử, Vương phu nhân cảm thấy lương tâm cắn rứt, nhưng nàng thì không, nàng tươi cười, an ủi đổ lỗi cho Kim Xuyến và nói: “Dì cũng chẳng nên lo lắng buồn bã làm gì, chỉ cần cho vài lạng bạc làm ma cho nó là trọn tình chủ tớ rồi”.
Suy cho cùng, Tiết Bảo Thoa là một thiếu nữ còn chưa ra khỏi chốn phòng khuê, cho nên ở nàng cũng vẫn giữ được một vài điểm chưa bị tiêm nhiễm “nộc độc” của chủ nghĩa phong kiến. Sống chung, tiếp xúc mãi với Giả Bảo Ngọc, rốt cuộc ở nàng cũng nảy nở một tình yêu trái với lễ giáo phong kiến. Nhưng tình yêu của nàng không dám phá vỡ sự ràng buộc kiên cố của quan niệm phong kiến và cũng không bộc lộ ra như Lâm Đại Ngọc, nó luôn bị che giấu, kìm nén trong lòng. Điều quan trọng là thái độ căm ghét của Gỉa Bảo Ngọc đối với lối sống phong kiến “làm quan trị nước” không thể không xung đột với nàng về mặt tư tưởng. Điều đó đưa đến mâu thuẫn trong tình yêu của nàng đối với Giả Bảo Ngọc, quan hệ của nàng với Giả Bảo Ngọc “như gần như xa”. Rốt cuộc tuy nàng và Bảo Ngọc thành vợ chồng nhưng không được hưởng hạnh phúc của tình yêu, cuối cùng nàng cũng trở thành một nhân vật bi kịch. Bi kịch của nàng là bi kịch của một người trung thành với đạo đức phong kiến.
Bên cạnh việc xây dựng thành công hình tượng nhân vật chính và nhân vật trung tâm trong Hồng Lâu Mộng thì Tào Tuyết Cần cũng thành công trong việc xây dựng hình tượng các nhân vật phụ. Gọi là nhân vật phụ là vì nhân vật giữ “vaitrò phụ”. Nó là nhân vật phụ trợ, có tính chất bổ sung nhưng không thể thiếu. Điều đáng chú ý ở đây là trong Hồng Lâu Mộng, tác giả miêu tả nhiều nhất là phụ nữ. Họ giống nhau hoặc na ná như nhau về độ tuổi, hoàn cảnh sống, cách sống… Những nhân vật đó được tác giả dựng nên thật sinh động, có máu thịt, có cá tính rõ nét. Tào Tuyết Cần không những có thể miêu tả được hết sức rõ ràng cá tính của từng người, mà đến cả những tích cách gần giống nhau, chỉ khác ở những nét đặc trưng hết sức tinh tế, cũng được ông khắc họa rõ ràng tỉ mỉ. Ví dụ tính ôn hòa, nhân hậu, dịu dàng của Bình Nhi khác với tính ôn hòa, nhân hậu, dịu dàng của Tập Nhân; tính phóng khoáng bộc trực của Sử Tương Vân khác với tính phóng khoáng bộc trực của chị ba Vưu… Quả là “ mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”! Chính vì vậy, Hồng lâu mộng còn có lúc được người ta gọi là Thập nhị kim thoa!
Và bên cạnh đó còn là một thế giới nhân vật phụ đại diện cho tầng lớp phong kiến như Giả mẫu, Giả Kiến, Giả Chính, Hình Phu nhân… mỗi người là một tính cách nhưng đều đại diện cho giai cấp phong kiến với những chế độ cổ hủ, lạc hậu và lúc nào cũng lo cho địa vị của mình.
Tóm lại, Hồng lâu mộng nhìn nhận con người trong sự phát triển đầy mâu thuẫn với những sự phát triển đầy tính biện chứng, có chiều sâu và có kịch tính. Chỉ cần soi vào hai nhân vât chính và trung tâm của tác phẩm: Bảo Ngọc và Đại Ngọc cũng đủ thấy tấn bi kịch của họ được thể hiện với những nút thắt, mở có cao trào và có điểm dừng. Riêng về mặt tâm lí nhân vật thì Hồng Lâu Mộng có thể sánh ngang với những tiểu thuyết hiện đại mà thậm chí nhiều tiểu thuyết ngày nay khó lòng đạt được.
 Ngôn ngữ
Không phải tự dưng những người Trung Quốc đời sau lại suy tôn Hồng lâu mộng như là khởi đầu của một tư tưởng và cách viết mới. Có thể nói những gì mà Tào Tuyết Cần thể hiện trong tác phẩm của mình xứng đáng để đưa Hồng lâu mộng lên ngang tầm những tiểu thuyết vĩ đại của Trung Quốc và của cả thế giới.
Tác phẩm Hồng lâu mộng mang những đặc trưng của tiểu thuyết chương hồi cổ điển Trung Quốc, thế nhưng không chỉ dừng lại ở mức kế thừa, Tào Tuyết Cần còn đưa vào trang văn mình những cái mới, những nét sáng tạo hay và đặc sắc. Đó là về cách xây dựng nhân vật, về kết cấu tác phẩm… và một phần quan trọng không thể không kể đến đó chính là ngôn ngữ trong tác phẩm.
Ngôn ngữ chính là chất liệu để nhà văn sản sinh ra những đứa con tinh thần của mình. Người đọc tiếp xúc với trang văn đồng nghĩa với việc họ đang tiếp xúc với những con chữ trên trang văn đó. Và các nhà văn, các nhà viết tiểu thuyết bằng tài năng của mình có thể làm cho những con chữ đó là những “xác ép khô”, bị bụi thời gian phủ mờ hay là những con chữ biết “ngọ nguậy”, đồng hành với bạn đọc đi qua những thử thách khắc nghiệt của thời gian.
 Tào Tuyết Cần có thể nói là nhà văn nằm trong nhóm thứ hai, ông đã khẳng định được tên tuổi của mình qua những đặc sắc về ngôn ngữ thể hiện trong tác phẩm Hồng lâu mộng.
Tiểu thuyết Hồng lâu mộng được viết bằng tiếng Bắc Kinh thuần túy. Tác giả đã bỏ nhiều công sức lưạ chọn, trau chuốt nên nó không nặng về thổ âm mà là những ngôn ngữ phổ thông lưu loát, uyển chuyển và đẹp đẽ. Ngôn ngữ trong tác phẩm Hồng lâu mộng  điêu luyện, giàu sức biểu hiện và cũng rất tự nhiên, bình dị, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày, rất “đẹp” và cũng rất “thật”.
Trong Hồng lâu mộng những lời thuyết lý, dẫn giải của người kể chuyện rất ít xuất hiện mà tràn ngập tác phẩm là ngôn ngữ nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật đa dạng, phong phú, thay đổi luôn luôn. Những lời lẽ hoặc dài hoặc ngắn, hoặc thanh hoặc thô đều phù hợp với địa vị, trình độ học vấn, tính tình, tâm trạng… của từng nhân vật, qua đó mà người đọc có thể tưởng tượng ra từng nhân vật với lời nói, nét mặt, cử chỉ và hành động riêng khác nhau.
Có thể nói rằng tài năng đáng khâm phục của Tào Tuyết Cần không phải chỉ là ở cách biết viết nên những con chữ giàu sức gợi, cũng không chỉ là khả năng biết tái hiện một cách khách quan lời nói của nhân vật độc đáo về cả tính tình, mà quan trọng nữa, một trong những điều làm nên thành công của Hồng lâu mộng, chính là cách tác giả sắp xếp một cách hợp lý những mẫu đối thoại của nhân vật, làm sao qua đó nhân vật có thể bộc lộ được tính cách và từ đó làm trái tim người đọc rung lên những tiếng nói ca thán, phẫn nộ hay xót thương sâu sắc.
Đối thoại chính là sự giao thoa, cộng hưởng hay là sự xen lẫn giữa các câu đối đáp của các nhân vật. Ngôn ngữ đối thoại chính là điều kiện cần có tạo nên sự “kết dính” của các nhân vật. Bởi có tâm sự, có nói chuyện họ mới hiểu nhau, mới biết về nhau được.
Tác giả Tào Tuyết Cần có thể nói rất giỏi “cá tính hóa” ngôn ngữ nhân vật. Cùng một chất liệu ngôn ngữ nhưng bằng các cách diễn đạt khác nhau, bằng những cách “nhào nặn” khác nhau ông đã làm cho lời nói từng người khác nhau, làm toát lên được tính cách bề ngoài của họ.
Lâm Đại Ngọc, một thiếu nữ thông minh, có tính tình thẳng thắn, bộ trực; nàng thường nghĩ sao nói vậy, không suy nghĩ trước sau. Những lời nàng thốt lên nhiều lúc chua cay, sắc lạnh nên có lúc không tránh khỏi việc làm mất lòng người khác và làm Giả Bảo Ngọc phải buồn bã, nghĩ suy. Theo như lời nhận xét của Tiết Bảo Thoa thì Lâm Đại Ngọc là một người có miệng lưỡi quỷ quái: “ Nó dùng lối bút pháp kinh Xuân Thu, nhặt những tiếng tục ở nơi đầu đường xó chợ, rút ra những lời chủ chốt, bớt chỗ rườm rà, rồi tô điểm thêm lên, nên nói câu nào ra câu đấy”. Tiết Bảo Thoa lại được Tào Tuyết Cần xây dựng khác với Đại Ngọc không chỉ đơn giản về ngoại hình mà cả về cách suy nghĩ và lối ăn nói hàng ngày. Nàng giao thiệp, ứng xử với mọi người xung quanh rất khôn khéo, hầu như không mất lòng ai. Còn Bảo Ngọc, nhân vật chính của truyện, cũng được Tào Tuyết Cần xây dựng không kém phần độc đáo. Bảo Ngọc không phải là kiểu người đàn ông oai nghiêm, đường vệ, thích hô hào, ham công danh… Chàng có những triết lý, quan niệm sống của riêng mình, không giống với bất kỳ người nào. Nghe những lời dạy dỗ của chàng với Giả Hoàn ta sẽ thấy điều đó: “Chỗ này không thích thì mày đi chơi chỗ khác. Cái này mày không thích thì đã có cái kia. Tội gì mày cứ khư khư giữ mãi cái ấy? Khóc liệu ăn thua gì? Chơi cốt lấy vui mà lại hóa ra chuốc lấy cái buồn?”. Và Phượng Thư, có thể nói là nhân vật “đời nhất” qua ngòi bút xây dựng của Tào Tuyết Cần. Trong con người nàng dường như là sự hỗn hợp, hội tụ giữa “chính” và “tà”. Lúc thì nàng dùng lời lẽ ngon ngọt để dỗ dành người khác, khi thì nàng hết sức yêu chiều chồng, kể cho chồng nghe những vất vả, lo toan của mình. Nhưng bên cạnh đó, có lúc nàng lại coi trời bằng vung, hiếp đáp những kẻ yếu đuối, thực hiện mọi cách nhằm thỏa mãn ý đồ của mình.
Qua ngôn ngữ đối thoại của Tào Tuyết Cần, dường như tất cả các nhân vật đều hiện lên rất sinh động và có hồn.
Bên cạnh ngôn ngữ đối thoại, có thể nói rằng, ngôn ngữ độc thoại nội tâm của nhân vật cũng đóng một vai trò không nhỏ vào sự thành công về mặt ngôn ngữ trong tác phẩm Hồng lâu mộng.
Nếu như ngôn ngữ đối thoại là những gì biểu hiện ra bề ngoài thì ngôn ngữ độc thoại chính là ngôn ngữ mà nhân vật tự nói bằng lời của mình với mình, những gì sâu kín bộc lộ bên trong tâm hồn nhân vật. Có những khi cái “bên ngoài” và cái “bên trong” biểu hiện nhất quán với nhau nhưng cũng có lúc chúng hoàn toàn trái ngược nhau. Mạnh mẽ hay yếu đuối, gian ngoa, xảo quyệt hay hiền lành, đoan chính, xấu hay tốt, thiện hay ác… Mọi thứ dường như lúc nào cũng nhập nhằng, khó phân định ranh giới.
Chính những dòng độc thoại nội tâm đã góp phần bổ sung không thể thiếu được trong việc đem đến cho người đọc cái nhìn toàn diện, chân thực và sâu sắc nhất về tính cách của từng nhân vật.
Theo dòng độc thoại nội tâm, người đọc như bị cuốn vào những mưu mô, toan tính, những suy nghĩ, tâm sự thầm kín của từng nhân vật.
Tiết Bảo Thoa, một thiếu nữ thông minh, khôn khéo, biết cách “tùy thời ứng xử”. Nàng biết cách xử lý mọi chuyện sao cho không liên lụy gì đến mình. Tính cách này chắc hẳn không phải do tự nhiên, bẩm sinh mà mà để được lòng tất cả mọi người  rõ ràng trong tâm trí của nàng luôn phải suy nghĩ, toan tính cho hợp lý mọi chuyện. Như lúc vô tình nghe được cuộc nói chuyện giữa Hồng Ngọc và Trụy Nhi, không tiện ra mặt, Bảo Thoa nghĩ ra kế “ve sầu thoát xác” nhưng trước sau vẫn cân nhắc kỹ càng: “Xưa nay những đứa gian dâm, trộm cướp, bụng dạ đều ra trò cả! Nếu mở cửa thấy ta ở đấy, lẽ nào chúng không hổ thẹn? Vả lại nghe tiếng hệt như tiếng con Hồng ở phòng Bảo Ngọc, nó xưa nay vẫn to gan, không coi ai ra gì, nó là đứa a hoàn điêu ngoa, quỷ quái bậc nhất. “Người cùng làm phản, chó cũng nhảy qua tường”. Nay ta biết được sự xấu xa của nó, nếu không cẩn thận, không những thêm chuyện mà ta cũng chẳng hay ho gì. Bây giờ lánh đi không kịp, chi bằng dùng lối “kim thiền thoát xác” mới được”. Bảo Thoa không những khôn ngoan mà còn rất tinh mắt trong việc nhìn người. Như khi bắt chuyện lần đầu với Tập Nhân, nàng đã có ý dè chừng: “ Đừng nên coi thường con bé này. Nghe nó nói xem ra cũng có chút kiến thức”. Những dòng độc thoại nội tâm còn cho ta đi vào suy nghĩ của nhân vật Phượng Thư, một người “ rất phong nhã, ăn nói rất linh lợi, tâm cơ lại rất kín đáo, sâu sắc, bọn đàn ông mấy ai bì kịp”. Đơn giản như lúc Giả Thụy giở trò ong bướm với nàng, nàng đã có suy nghĩ: “Thế mới là: Biết người biết mặt, biết lòng làm sao? Đâu lại có hạng người chó má như thế! Nói vậy sẽ có lúc nó phải chết với ta!”.
Ngôn ngữ độc thoại nội tâm nhân vật của Tào Tuyết Cần có lúc dẫn dắt người đọc đi vào những mưu toan cá nhân nhân vật, có khi lại để cho độc giả trôi dạt theo những dòng suy nghĩ nội tâm miên man vô định của nhân vật.
Lâm Đại Ngọc bề ngoài mạnh mẽ, cứng cỏi nhưng thực ra bên trong nàng là một cô gái yếu đuối, đa sầu đa cảm, hay tủi phận. Nàng có tâm hồn lãng mạn, thích làm thơ. Chính bản tính đó của Đại Ngọc của nên Tào Tuyết Cần đã ưu ái giành ra nhiều trang văn để mô tả những dòng độc thoại nội tâm nàng.
Lâm Đại Ngọc thường hay ở trong tình trạng ngổn ngang, chồng chéo của nhiều trạng thái tình cảm khác nhau. Đoạn văn miêu tả tâm lý rất hay sau đây của Tào Tuyết Cần sẽ bộc lộ một cách rõ nét điều đó: “Đại Ngọc nghe vậy mừng mừng, sợ sợ, tủi tủi, thương thương. Mừng là: mắt mình không nhầm, ngày thường vẫn cho anh ấy là người tri kỷ, giờ quả thực như vậy. Sợ là: trước mắt người khác, anh ấy vẫn nghĩ đến mình, vẫn khen ngợi mình, đủ biết mối tình nồng nàn không hề e ngại tí gì. Tủi là: anh đã là người tri kỷ của tôi thì tất nhiên tôi cũng là tri kỷ của anh. Anh với tôi đã là một đôi tru kỷ, thì tại sao lại có chuyện “vàng với ngọc”. Mà dù có chuyện “vàng ngọc” thì vàng ngọc ấy đáng lẽ là của anh và của tôi, chứ tại sao lại còn có Bảo Thoa nữa? Thương là: cha mẹ mất sớm, dù có ghi lòng tạc dạ, nhưng không có ai tác thành cho ta”.
Lâm Đại Ngọc yêu một người nhưng cô phải băn khoăn, thấp thỏm, lo âu về những tình cảm thật sự mà người ấy đã giành cho mình. Tơ lòng rối ren, cảm xúc đan xen lẫn lộn. Thật đáng thương cho người con gái yếu đuối Lâm Đại Ngọc.
Rõ ràng chỉ dựa vào những lời đối thoại bề ngoài thì không thể thấy hết được tính cách và suy nghĩ của nhân vật, phải thông qua những dòng độc thoại nội tâm thì con người nhân vật mới được bộc lộ một cách đầy đủ và trọn vẹn.
Ngòi bút của Tào Tuyết Cần khi đi vào miêu tả những dòng độc thoại nội tâm của nhân vật rất uyển chuyển và gây ấn tượng với người đọc. Chính ngôn ngữ này đã thổi một hơi thở mới, làm cho nhân vật của ông không còn trơ lỳ trên trang giấy mà dường như nó cũng biết cử động và hiện lên một cách chân thực, sống động hơn bao giờ hết trước mắt người đọc.
Mỗi nhân vật, một cách nói chuyện, một lối suy nghĩ riêng, một sắc thái cảm xúc khác nhau không thể lẫn vào đâu được. Họ không hoàn toàn tốt cũng không hoàn toàn xấu, họ không phải là “ác quỷ” cũng không hẳn là một “thiên thần”, bởi họ là những nhân vật được lấy từ đời sống thực đưa vào trang văn. Đây chính là nét độc đáo, sáng tạo của ngòi bút Tào Tuyết Cần so với các tác phẩm tiểu thuyết thời bấy giờ.
Như vậy, xuyên suốt tác phẩm Hồng lâu mộng  của Tào Tuyết Cần là ngôn ngữ nhân vật, gồm ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại. Những cuộc đối thoại biểu hiện bên ngoài gắn bó chặt chẽ với những dòng độc thoại nội tâm. Chúng thâm nhập vào nhau, chồng chất lên nhau theo các gốc độ khác nhau, từ đó làm toát lên cuộc đối thoại lớn bao trùm trong toàn bộ tác phẩm.
Ngoài ngôn ngữ nhân vật thì trong tác phẩm Hồng lâu mộng ta còn bắt gặp ngôn ngữ trần thuật của tác giả. Tuy nhiên, chúng xuất hiện rất ít. Trong tác phẩm, tác giả chỉ mô tả hay thuật chuyện hết sức gọn ghẽ với một lối văn thành thục, mang màu sắc hiện đại, gọn gãy và cũng rất trang nhã.
Qua ngôn ngữ kể đó tác giả đã làm nổi bật lên bức tranh thế sự qua lớp màn huyền thoại xen lẫn với hiện thực.
Về mặt ngôn ngữ cũng như thơ từ của các nhân vật giữa 80 hồi đầu và 40 hồi sau có khác nhau chút ít, một bên mượt mà, chải chuốt và uyển chuyển hơn, nhưng nhìn chung phong cách ngôn ngữ toàn tác phẩm là thống nhất, không để lại dấu vết của sự chắp vá.
Có thể ví Tào Tuyết Cần như một người thợ rèn, ông rèn đúc những con chữ của mình một cách điêu luyện, làm chúng không hề nằm bẹp trên trang giấy mà mỗi dòng, mỗi chữ đều có sức nóng hổi toát ra từ cái “tâm” của tác giả. Còn nếu như ví Tào Tuyết Cần là một nghệ nhân nghề gốm thì có thể nói ông là một người thợ tài ba bởi ông đã biết lấy những nguyên liệu sẵn có từ  mảnh đất màu mỡ của cuộc sống để nhào nặn nên những con người đời thường rất thực, nhào nặn ra những con chữ biết động đậy.
 Thời gian – Không gian
Hồng lâu mộng  là hình ảnh thu nhỏ của xã hội phong kiến Trung Quốc đương thời, một xã hội mục ruỗng, rỗng tuếch mang dấu hiệu của sự suy sụp và tàn lụi không xa trong tương lai.
Trong tác phẩm Hồng lâu mộng” Tào Tuyết Cần đã xây dựng nhiều cặp  không gian đối lập, tương phản  nhau.
Cặp không gian rộng và hẹp:
Thông qua hình ảnh ở vườn Đại Quan, trong phủ Vinh quốc và sự thăng trầm, thịnh suy của gia tộc họ Gỉa tác giả ngầm phản ánh khoảng không gian rộng lớn hơn đó là khung cảnh lịch sự của thời đại, sự suy tàn của chế độ phong kiến cổ hủ, khắt khe, giáo điều.
Bên trong- bên ngoài:
Khung cảnh bên trong dãy tường bao chiếm mất nửa phố của phủ Vinh quốc là những bữa tiệc linh đình, sa hoa của những con người giàu sang quyền quý với gấm vóc lụa là,  với vàng bạc châu báu dựa vào sự bóc lột địa tô còn bên ngoài là tầng lớp dân đen với sự khổ cực trên thân xác và tinh thần, cuộc sống của họ luôn phải đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt với lũ lụt, với hạn hán, với trôm cướp . . .
Khung cảnh náo nức, ồn ào với sự tĩnh lặng, cô đơn:
Đó là hình ảnh những người trong phủ tham gia tiệc tùng nơi vườn Đại Quan với sự ồn ào, náo nhiệt, còn Lâm Đại Ngọc ở Quán Tiêu Tương mang tâm trạng buồn man mác và những dòng suy nghĩ miên man.
Khung cảnh của sự thịnh vượng và lúc tàn lụi:
Nếu như ở phần đầu và phần giữa của tác phẩm là sự hưng thịnh của gia tộc họ Giả với  những cảnh đẹp, những bữa tiệc ồn ào, náo nhiệt thì về cuối là một khung cảnh của sự chia li, tang thương, hoang vắng,trầm tư.
Việc tạo ra nhiều cặp không gian mang hình ảnh trái ngược nhau chính là một thành công trong thủ pháp nghệ thuật của tác giả, cuộc sống muôn màu muôn vẻ, và nó là một vòng tuần hoàn nhân quả, hợp rồi tan,có thịnh ắt sẽ có lúc suy, có tiếng cười tất sẽ có nước mắt, có hạnh phúc tất phải có niềm đau, mọi sự vật, sự việc đều vận động và biến đổi theo quy luật đó, không có gì là mãi mãi, không có gì là bất biến.
Thời gian trong “Hồng lâu mộng” chủ yếu là thời gian trực tiếp, các nhân vật được tác giả miêu tả qua cuộc sống và những sinh hoạt hằng ngày. Hầu hết những nhân vật xuất hiện trong tác phẩm đều chưa đi hết một vòng tuần hoàn của đời người là “sinh-lão-bệnh-tử” nhưng thời gian thì đã đi hết vòng xoay tuần hoàn  của nó, sự hưng thịnh rồi tàn lụi của gia tộc họ Giả chính là minh chứng rõ ràng cho điều đó. Hầu như thời gian không bị xáo trộn mà tuôn chảy một mạch từ đầu tới cuối tác phẩm như một dòng sông phẳng lặng tuôn ra biển Đông.
Nhìn tổng quát cả tác phẩm chúng ta thấy rằng thời gian và không gian trong tác phẩm khá đồng điệu với nhau. Gắn với khoảng không gian hẹp trong phủ Vinh quốc và sự thăng trầm của gia tộc họ Giả thì có thể nói thời gian hẹp chính là cuộc đời của mỗi con người, mỗi cá thể  nhưng xét trong khoảng không gian rộng với hình ảnh xã hội phong kiến Trung Quốc đang suy tàn thì đó lại là một khoảng thời gian, một quá trình lâu dài, một vòng tuần hoàn đầy đủ theo trình tự và quy luật của thời gian.
KẾT LUẬN
Tào Tuyết Cần là người đã đưa nghệ thuật sáng tác tiểu thuyết cổ điển lên đỉnh cao nhất. Tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng có thể nói là tác phẩm mẫu mực nhất trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Điều đó được thể hiện qua biệt tài xây dựng nhân vật, qua kết cấu, cốt truyện, ngôn ngữ và cách mô tả thời gian, không gian trong truyện...
Chính vì những đóng góp to lớn đó mà ngay từ khi ra đời, Hồng Lâu Mộng  đã lôi cuốn sự chú ý của độc giả  và nhà nghiên cứu. Có một thời gian, nó bị cấm lưu hành, cho là loại sách dâm thư, đem đốt đi... thế nhưng dù bị nguyền rủa và cấm đoán đến đâu, tác phẩm vẫn được người ta lưu truyền rộng rãi và cho đến này đã trở thành một trong những kiệt tác của dân tộc Trung Quốc nói riêng và của cả thế giới nói chung.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét